|
KÊ
KÊ KÊ
DẬU 雞
鷄
鸡
酉 Phạm xuân Hy
( * ) Nhân
có người bạn già vong niên đến chơi
thăm tôi, ngày trời tháng bụt, lại lún phún
mưa rầm, ngồi trong nhà rỉ rả nói
truyện phiếm dông dài, gió trăng mây nước,
lan man những
truyện cà kê dê ngỗng. Con hổ giấy. Con
hổ thật. Con chồn con cáo. Con chuột con gà.
Lại biết tôi có một dúm chữ nho, anh bèn
lấy bút viết ra mấy chữ dưới
đây:
雞 鷄
鸡
酉
KÊ KÊ KÊ DẬU Bảo
tôi cắt nghĩa và cho biết những sự tích
liên quan đến gà. Bị hỏi đột
ngột, bất ngờ, nhất thời tôi tỏ
ra lúng túng, đỏ mặt, không biết trả
lời bạn tôi ra sao. Vả, biển học mênh
mông, chữ nghĩa chập chùng, cái vốn
chữ nho của tôi cũng chỉ có giới
hạn, nên không dám nói sằng nói bậy. Tôi
đành khất nợ với bạn. Xin cho tôi
đựợc phép mở sách ra đọc, và
trả lời bạn sau. V́
thế, hôm nay mới có bài viết này. 1.
Nghĩa của bốn
chữ kê 雞,
kê 鷄,
kê 鸡,
dậu酉. Ba chữ 雞
鷄 鸡 này
âm Hán Việt đều đọc là "kê",
đều là những chữ đồng âm và
đồng nghĩa, và đều chỉ một
loại gia cầm có khả năng báo hiệu
giờ giấc, mỏ ngắn, phần trên hơi
cong, trên đầu có mào, cánh ngắn, không
thể bay cao được. Tiếng Việt
dịch nghĩa là "Con Gà". Sách "Thuyết Văn
Giải Tự" giải thích "知 時 畜 也 - tri thời súc dă ". Gà là gia súc có khả năng biết
giờ giấc, và báo sáng, nên ngày xưa
người ta nuôi gà để báo thức
dậy sớm đi làm. Nhưng ngày nay, đă có
đồng hồ, nên gà được nuôi
phần lớn để ăn thịt. Tuy nhiên, ba chữ này
có sự khác biệt nhau về cách tạo tự
của chúng. a/
Chữ
雞.
(đọc là kÊ) : Theo
giáp cốt văn và kim văn, đây là một
chữ thuộc loại tượng h́nh tự.
Tự h́nh của chữ này rất giống h́nh
một con gà trống, trên có mào, chữ
được cấu tạo bởi hai thành
phần. Thành phần bên trái
gọi là thanh bàng là chữ 奚 (đọc hề),
sử dụng làm thanh phù. Thành phần bên
phải h́nh bàng là chữ 隹 (đọc chuy) sử dụng làm ư phù. Chuy隹, theo sách "Thuyết Văn Giải
Tự" của Hứa Thận đời Đông
Hán, giải thích là từ dùng để gọi
chung loài chim lông đuôi ngắn (短 尾 禽 總 名 - Đoản vĩ
cầm tổng danh) b/
Chữ
鷄. (đọc là kÊ) : Chữ
鷄
(đọc kê) do diễn biến của chữ 雞 (đọc kê) này thành chữ
h́nh thanh tự. Hai chữ này chỉ khác nhau
ở phần ư
phù bên phải, là chữ điểu 鳥 thay chữ chuy 隹
mà thôi. C̣n thanh phù vẫn giữ nguyên chữ
hề 奚, âm và nghĩa giống
nhau. Chữ điểu 鳥,
"Thuyết Văn Giải Tự" giải thích
là loại chim lông đuôi dài (長尾禽總名
-
Trường vĩ cầm tổng danh) c/
Chữ
鸡.
(đọc là kÊ) : Có
người loại suy cho rằng chữ kê 鸡 này mới xuất hiện trên đại
lục, khi nước Cộng Ḥa Nhân Trung Hoa
được thành lập. Thật
ra, đây là chữ thuộc loại giản
thể của chữ kê
鷄
trên, thanh phù bên trái 奚
(đọc
hề) được giản hóa
bằng chữ 又
(đọc hựu), c̣n ư phù bên phải 鳥
(đọc điểu), được giản hóa
thành 鸟 (đọc điểu),
âm và nghĩa như hai chữ kê trên, không thay
đổi. Chữ kê 鸡 này,
người ta đă thấy xuất hiện trong
sách "Kim B́nh Mai Kỳ Thư" và sách
"Mục Liên Kư Đạn Từ " đời
nhà Thanh. Đến năm 1932 và năm 1935,
bộ giáo dục công bố bảng"Giản
Thể Tự Biểu", chữ kê giản
thể cũng đă được ghi trong
bảng giản thể biểu đó, tuy nhiên
chỉ giản hóa phần thanh phù thôi, phần ư
phù vẫn giữ nguyên. V́ là giản thể, nên chữ kê 鸡
này không thể phân tích theo như phương pháp
lục thư được. d/ Chữ
酉. (đọc
là DẬU) : Người ta thường nói: "Tôi
tuổi Dậu", để nói rằng năm
sinh của người đó thuộc năm gà, v́
thế, đôi khi đưa đến sự
lầm lẫn cho rằng dậu 酉, có nghĩa
là gà. Thật ra, chữ dậu là chữ
thuộc loại độc thể tự. Tự h́nh,
là h́nh vẽ một
cái b́nh đựng đầy rượu, nên nghĩa
gốc của dậu 酉 ngày xưa
là rượu, nên chữ tửu 酒 mới
đầu viết là dậu 酉. Về
sau, theo cách giả tá, dậu mới biểu
thị danh xưng của chi thứ mười
trong mười hai địa chi: tư, sửu,
dần, măo, th́n, tỵ, ngọ, mùi, thân, DẬU,
tuất hợi. Nhưng tại sao lại dùng con
gà làm tượng trưng của chi dậu,
con chuột là tượng trưng của chi tư,
con chó là tượng trưng của chi tuất v.
v...? Câu hỏi này cho đến nay, các nhà
nghiên cứu văn hóa Trung Hoa, hầu như
vẫn chưa t́m ra câu trả lời rơ rệt,
thỏa đáng. Hoặc chỉ đưa ra
những ức đoán mà không chứng minh
được, và ngay cả các học giả
Trung Hoa cũng không t́m được xuất
xứ của mười hai địa chi trên. Tuy
thế, dầu không biết xuất xứ, nhưng
ảnh hưởng của
mười hai địa chi này, như
một thực tế, ăn sâu vào những suy tư,
sinh hoạt của người Trung Hoa, không
thể chối căi được. Người
Trung Hoa từ hàng
ngh́n năm trước đă dùng mười hai
địa chi phối hợp với mười
thiên can để ghi nhớ ngày, tháng, năm. Ghi
nhớ các sự kiện lịch sử, những
ngày sinh, tháng đẻ, đến ngày tết ngày
giỗ, ngày cưới vợ gả chồng,
cất nhà mở tiệm, đi chơi xuất hành,
nhất nhất cái ǵ cũng được ghi
nhớ bằng thiên can, địa chi cả. Có
khi c̣n đến các thầy bói, các thầy địa
lư, các tử vi gia, để nhờ reo
quẻ, bấm độn cho biết sự
tốt xấu về t́nh duyên, gia đạo, buôn
may bán đắt. Các thầy bói, các thầy
tử vi, các chiêm tinh gia, hàng ngày vẫn phải
lẩm bẩm nhắc tên từng thuộc tướng
tư, sửu, dần, măo, th́n, th́n, tỵ, ngọ,
mùi, thân, dậu, tuất, hợi... để
thỏa măn những câu hỏi của khách hàng. Đây thật là một điều
kỳ lạ khó hiểu trong một văn minh
rực rỡ lâu đời như nền văn
minh Trung Quốc. Nhưng thôi, tôi xin gác vấn đề này sang
một bên, để dịp khác. Và xin trở lại với đề tài về gà. 2.
Những từ ngữ
chữ Hán dùng để chỉ gà. Như trên đă tŕnh bầy, chữ dậu không có
nghĩa là con gà. nhưng trong những thư
tịch và văn thơ
cổ điển Trung Hoa, người ta thường
gặp những từ ngữ sau đây để
chỉ con gà: a/ Song
cầm 窗 禽: Theo sách "Nghệ Văn Loại
Tụ" th́: "Thứ sử Duyện Châu
đời Tấn, tên là Tống Xử Tông, người
Bái Quốc, từng mua được một con gà,
có tiếng gáy rất dài, nên Xử Tông rất
lấy làm yêu quư, nuôi dưỡng rất cẩn
thận, thường để lồng gà ở bên
cửa sổ. Gà bèn dùng tiếng người
đàm luận với Xử Tông, rất là
biện bác, suốt ngày không ngừng. Nhờ
thế mà tài hùng biện của Xử Tông
tiến rất xa. Sau này, hậu thế dùng
từ ngữ "Song cầm" để
chỉ gà. b/ Kim
cầm 金
禽: Theo thuyết ngũ hành, gà thuộc hành
kim, v́ thế gọi gà là kim cầm. c/ Tốn
vũ 巽
羽: Trong Kinh Dịch, quẻ tốn 巽 chỉ con gà. Gà thuộc loại vũ
trùng, v́ thế gọi gà là tốn vũ. Như
Ban Cố, tác giả Hán Thư, từng dùng hai
chữ tốn vũ để chỉ gà "巽羽化于宣宮兮-Tốn vũ hóa vu Tuyên
Cung hề" d/ Thời
dạ 時
夜: Gà có khả năng coi đêm tối, v́
thế gọi gà là "thời dạ".
Thời, có nghĩa là chưởng quản, trông
coi. Trong sách "Trang Tử -Tề Vật
Luận" có câu "Kiến noăn nhi cầu
thời dạ 見卵而求時夜" Có nghĩa là "Thấy trứng
th́ muốn có gà".
e/ Chúc
dạ 燭
夜: Gà có khả năng coi đêm, và quan sát
trời sáng, nên gọi gà là chúc dạ. Chúc 燭 có
nghĩa là quan sát, xem xét cho rơ. 3.
Những từ ngữ có liên
quan đến chữ kê. Liên quan đến chữ kê, hán tự có rất
nhiều từ ngữ, thành ngữ, và điển
cố. Như trên đă tŕnh bầy, chữ kê 雞 vốn là loại chữ tượng h́nh. Đó là
h́nh vẽ của một con gà trống, nhưng các
tự điển chữ Hán, hay Hán Việt
từ điển, chỉ giải thích chữ kê
có nghĩa là gà. Muốn nỏi rơ gà trống th́ phải gọi là
"công kê 公 雞", gà mái là "mẫu kê 母雞". Nhưng cũng có những từ ngữ có
chữ kê, lại chỉ một vật khác, hay ám
chỉ một nghề nghiệp khác như. Như
chữ "dă kê 野
雞", ngoài cái nghĩa chỉ loại
chim trĩ ở ngoài đồng ruộng, ngày xưa
c̣n dùng hai chữ này để ám chỉ
những cô gái mại dâm, đứng ở ngoài
đường, lôi kéo khách về nhà. Tôi không rơ
thành ngữ "mèo mả gà đồng"
của ta, trong đó hai chữ "gà đồng"
có phải do ư từ chữ "dă kê"
này mà ra chăng? Hay do chữ "điền
kê 田雞" mà ra? Dưới đây xin cử ra một vài
thành ngữ khác. a/ Kê
công xa 雞公車. Kê công xa là tên gọi loại xe một
bánh, do vợ
Gia Cát Lượng
là Hoàng Nguyệt Anh nghĩ chế tạo ra. Nguyên
vào thời Tam Quốc, Lưu
Bị sau khi mượn được
đất Kinh Châu, nhưng lương thực không
đủ dùng, mới sai Gia Cát Lượng t́m cách
khai khẩn trồng trọt. Kinh Châu lại là vùng
đất có nhiều hồ, v́ thế muốn
khai khẩn th́ phải đào đất làm đê
để ngăn nạn lụt. Gia Cát Lượng
thấy sĩ tốt lao lụy người
cuốc người vác, vất vả, công
việc chậm chạp mà lại cực nhọc
vất vả, muốn dùng chiến xa để
chuyên trở th́ không được, mà mùa nước
lũ sắp tới. Về nhà Gia Cát Lượng
thở vắn thở dài, chưa nghĩ ra
biện pháp. Người vợ là Hoàng Nguyệt
Anh thấy vậy mới hỏi nguyên cớ, Gia Cát
Lượng đem sự việc kể lại cho
vợ nghe. Người vợ chỉ cười.
Gia Cát Lượng biết vợ đă t́m ra
biện pháp, bèn khom người vái vợ mấy
vái xin chỉ giúp. Người vợ mới nói:
"Tối nay thiếp sẽ thiết kế làm
một chiếc xe nhỏ, khi gà kêu đến
lần thứ ba sẽ giao hàng cho tướng công". Gia
Cát Lượng đứng chờ ở ngoài
cửa, khi gà gáy đến lần thứ hai, ông
sốt ruột, đẩy cửa bước vào
pḥng của vợ, th́ thấy người vợ
đă hoàn thành xong một chiếc xe nhỏ, có
một bánh, khi đẩy xe lên, th́ xe phát ra
tiếng kêu cót ket như cục tác, lại hoàn
thành trước cả dự định một
tiếng gà, nên mới đặt tên là " kê công
xa". Nhờ
loại xe mới sáng chế nầy, mà công
việc vận chuyển đất để
đắp đê được nhanh chóng và
bớt vất vả hơn, giúp cho việc
khẩn hoang của Lưu Bị được
mở rộng và phát triển thêm, có đủ lương
thực để chống lại với phe
Ngụy và Ngô. b/ Kê
gian
雞
姦. Chỉ việc con trai hành dâm với con
trai. Ngày xưa đó là một tội danh bị
phạt xử tử, và bị coi là một
tội hèn hạ, xỉ nhục, mất đạo
đức. Tức như bây giờ thường
gọi là bệnh đồng tỉnh luyến ái.
Bê đê. Trên thực tế bệnh kê gian,
bệnh háo nam sắc này xuất hiện đă
từ lâu đời. Nước Tầu, từ
khi Tần thống nhất cho đến nhà Măn
Thanh bị lật đổ, kéo dài 2133 năm,
gồm 564 vị hoàng đế, không thiếu
những ông vua anh hùng, tài trí thao lược, nhưng
lại mắc bệnh "kê gian", hiếu nam
sắc. Tần Thủy Hoàng có gă Triệu Cao xinh
đẹp mà gian ác. Triều nhà Hán, Hán Cao
Tổ Lưu Bang có chàng Tịch Nhũ thanh tú linh
lợi. Văn Đế Lưu Hằng có chàng
Đặng Thông xuất thân bần hàn, sống
bằng nghề lái đ̣, nhưng nhờ khuôn
mặt đẹp như trăng, nước da
trắng như ngọc ngà mà được
vua yêu. Vơ Đế Lưu Triệt có nam sủng là
Hàn Yên và Lư Diên Niên. Vua Ai Đế đời
Hậu Hán có Đổng Hiển. Ai Đế say
mê Đổng Hiền, thường
cho Hiền cùng ăn cùng ngủ. Có lần vua cho
Hiền ngủ trên tay áo của ḿnh, vua muốn
đứng dậy, nhưng thấy Hiền c̣n chưa
tỉnh, không nỡ đánh Hiền thức
dậy, bèn dùng dao cắt đứt tay áo của
ḿnh, để cho Hiền ngủ yên. Thành ngữ
"Đoạn tụ 斷袖 -Cắt tay áo" thường
được sử dụng trong thơ văn
cổ điển để chỉ bệnh háo nam
sắc của các bậc đế vương. Háo nam sắc đối
với các ông vua, không phải là một thứ t́nh
cảm bẩm sinh, chẳng qua chỉ là một món
ăn chơi "nghiệp dư", khi đă là
"thiên tử-con trời", muốn ǵ
được nấy. Bằng cớ là các
vị thiên tử này vẫn có vị v́ nữ
sắc mà bị mất thiên hạ. c/ Kê
đầu nhục 雞 頭 肉. Nếu hiểu theo nghĩa là
"miếng thịt đầu gà" th́ không
đúng. "Kê đầu nhục" có nghĩa
là đầu vú của phụ nữ. Nhân v́
Đường Minh Hoàng là một ông vua bay bướm
đa tài lẫn đa t́nh. Một hôm vua thấy
Dương Qúy Phi tắm xong, đứng soi gương,
để lộ một đầu vú ra khỏi áo,
vua bèn lấy tay vân vê sờ lẩn, rồi
bảo với Dương Quư Phí rằng:
"Nhuyễn ôn tân bác kê đầu nhục -軟 溫 新 剝 雞 頭
肉.
Mềm mại êm ấm như thịt đầu
gà mới bóc". Nhưng đầu gà th́
chỉ toàn xương thôi, làm sao mà mềm
mại êm ấm được. Chẳng qua là
một cách nói văn hoa, ẩn dụ cho đẹp,
thay v́ nói toạc móng heo, một càch sỗ sàng là
cái đầu vú. Bồ Tùng Linh trong Liêu Trai Chí Dị,
truyện Liên Tỏa, cũng dùng từ ngữ này
một cách khéo léo. Ông viết: "戲
以 手 探 胸 則 雞 頭
之 肉 依 然 處 子 - Hí dĩ thủ thám hung, tắc kê đầu chi
nhục, y nhiên xử tử. - Đùa lấy tay
lần sâu vào bụng nàng, thấy đầu vú,
y nhiên c̣n là trinh nữ. " Cổ nhân dùng chữ quả thật nhiêu
khê, rắc rối. d/ Kê
đầu cẩu huyết 雞
頭 狗 血 - Đầu gà máu chó. Cổ xưa, người Trung Hoa cho
rằng gà và chó là những con vật có
nguồn gốc thần bí, khác những gia súc khác.
Gà là do Ngọc Hành Tinh tan ra mà thành. Chó là do
Đẩu Tinh mà sinh ra, nên người Trung Hoa
xử dụng một số bộ phận nào
đó của gà để làm pháp bảo phù chú,
như đầu gà máu chó. Họ tin rằng dùng
máu gà, máu chó có thể tịch tà, diệt
trừ được những điều bất
tường, xui sẻo. Theo sách Sử Kư của Tư Mă Thiên,
việc sử dụng máu chó, máu gà
bôi vào cửa để giải trừ
những thế lực "tà ma", hoặc phá
những "yêu thuật" gian ác
của kẻ thù. Đó là một hiện tượng
đă có từ đời Tần Thủy Hoàng. Tập tục chém đầu gà treo
ở trước cửa vào đêm giao thừa
để trợ trường sinh và giúp ích cho
việc trồng trọt, cấy cầy của nhà
nông cũng là một hiện tượng phổ
biến ở Trung Hoa trước cuộc Cách
Mạng Tân Hợi. Ngoài ra, người Tầu c̣n dùng xương
gà, gan gà, mỏ gà, trứng gà để bói
toán, dự đoán cát hung, may rủi. Để chấm dứt bài này, tôi xin thuật
lại sự tích "Kê cân 雞筋 - gân gà " dưới đây : Kê cân 雞
筋 hay kê lặc 雞
肋. Gân gà hay xương gà? Hồi c̣n nhỏ, tôi ham đọc "Tam Quốc Chí
Diễn Nghĩa", tôi cố để dành
tiền mua được một bản dịch
truyện này, do nhà in Phúc Chi ấn hành, nhưng
lại không ghi tên người dịch. Nguyên danh
là Tam Quốc Chí Thông Tục Diễn Nghĩa, La
Quán Trung đă dựa vào Tam Quốc Chí của
Trần Thọ, đời Tấn mà soạn ra,
được các nhà phê b́nh văn học Trung
Hoa coi là đệ nhất tài tử thư. La Quán
Trung đă vẽ lại cho người đọc
thấy cuộc đấu tranh quân sự giữa
các sứ quân cát cứ, và t́nh h́nh chính trị
phức tạp kéo dài hơn nửa thế kỷ
trong thời kỳ Hán mạt - Tam Quốc. Toàn
truyện có nhiều chi tiết có thật rút
từ chính sử ra, và có khoảng 1191 nhân
vật, rất khó mà nhớ hết. Nhiều thành
ngữ của Trung Quốc cũng được
rút ra từ bộ truyện này, như "Quá Ngũ
Quan Trảm Lục Tướng - 過
五 關 斬 六 將", "Vọng Mai
Chỉ Khát - 望
梅 止 渴", "Thất Bộ
Thành Thi - 七
步 成 詩", "Tam Cố
Thảo Lư -
三
顧 草 蘆",
"Dương Tu Kê Lặc 揚 修 雞 肋"… Dương Tu vốn là mưu sĩ của Tào Tháo,
con của Dương Bưu, người Hoằng
Nông Hoa Âm, nổi tiếng là một người
tài tư mẫn tiệp, học rộng biết
nhiều, nhưng thường ỷ tài, nhiều
lần mạo phạm vào những điều
cấm kỵ của Tào Tháo, lại thêm đứng
về phe Tào Thực trong cuộc tranh dành ngôi báu
với Tào Phi, càng khiến Tháo ghét thêm. Năm Kiến An nhị thập tứ niên, tức năm
219 Công Nguyên, Tào Tháo với Lưu Bị tranh nhau
đất Hán Trung. Tào Tháo đánh nhiều
trận không thắng, lại mất viên mănh tướng
Hạ Hầu Uyên, nên Tháo có ư muốn rút quân,
nhưng trù trừ chưa quyết định.
Giữa lúc đó, bộ hạ của Tháo là
Hạ Hầu Đôn vào trong trướng xin
hiệu lệnh ban đêm. Tháo nh́n thấy trong bát
thang đang ăn của ḿnh
c̣n có cái "gân gà" chưa ăn, bèn
thuận miệng nói: "Gân gà! Gân Gà ". Đôn ra ngoài truyền lệnh cho các quan quân bảo
là "Gân gà". Hành Quân Chủ Bạ Dương Tu nghe thấy hai
chữ "Gân gà", bèn bảo cho quân sĩ
của ḿnh sửa soạn hành trang để
đi về. Có người đến báo cho
Hạ Hầu Đôn biết. Đôn giật ḿnh
kinh sợ, cho mời Tu vào trong trướng
của ḿnh, và hỏi: - Tại sao ông lại thâu thập hành trang vậy? Tu đáp: - Theo như hiệu lệnh đêm nay là biết
Ngụy Vương sớm muộn ǵ cũng rút
quân về. "Gân gà " ăn vào th́ không có
thịt, mà bỏ đi th́ c̣n mùi vị. Nay ta
tiến th́ không thể thắng, c̣n lùi th́
sợ địch quân chê cười. Trong hoàn
cảnh vô ích như thế, chi bằng rút
về. Tương lai, Ngụy Vương thế
nào cũng ban sư đấy, v́ thế tôi thâu
thập hành trang trước, tránh khỏi bị
hỗn loạn lúc lâm hành. Ngụy Vương tức Tào Tháo, các cận
thần của Tháo đều tôn xưng Tháo là
Ngụy Vương. Đôn nghe nói thế, bảo: - Ông thật là người biết hết gan
ruột của Ngụy Vương đấy! Rồi cũng cho lính thâu thập hành trang. Thế là các tướng trong doanh trại của quân
Ngụy, chẳng ai là không chuẩn bị để
rút về. Đêm đó, Tào Tháo thấy trong ḷng bồn
chồn rối loạn, ngủ không
yên, bèn sách cương phủ đi một
ṿng quanh trại. Chỉ thấy quân sĩ trong
trại của Hạ Hầu Đôn ai nấy
đều chuẩn bị hành trang. Tháo đâm
hoảng, vội vă trở về trong trướng,
gọi Hạ Hầu Đôn lên hỏi. Đôn thưa: - Chủ Bạ Dương Đức Tổ biết
trước được ư muốn trở
về của Đại Vương! Đức Tổ là tên chữ của Tu. Tháo cho
gọi Tu lên hỏi. Tu lấy ư của hai chữ
"Gân gà" ra giải thích. Tháo giận quá, nói:
-Nhà ngươi dám tạo ngôn, làm loạn quân tâm à!
Rổi hét đao phủ thủ lôi Tu ra chém đầu
treo ở ngoài cửa hiên môn. Sự tích trên đây, tôi đă dịch từ nguyên
bản chữ Hán sách Tam Quốc Diễn Nghĩa,
hồi thứ bẩy mươi, sách do Minh Lương
Thư Cục ở Hương Cảng phát hành.
Đến đây
tôi xin mở một dấu ngoặc: Vốn trong nguyên truyện bằng
chữ Hán, không hề có chữ "kê cân 雞 筋" mà
chỉ có chữ "kê lặc 雞 肋". Câu
trong nguyên truyện viết là:
適
庖 官 進 雞 湯, 操 見
碗 中 有 鶵 肋, 因 而
有 感 於 懷, 正 沈 吟
間 夏 侯 惇 入 帳 稟
請 夜 間 口 號. 操 隨
口曰: 雞 肋! 雞 肋.惇傳令眾官都稱
雞 肋. (Dịch âm: Thích
bào quan tiến kê thang Tháo kiến oản trung
hữu sồ lặc nhân nhi hữu cảm ư hoài
Chính trầm ngâm gian Hạ Hầu Đôn nhập
trướng bẩm thỉnh dạ gian khẩu
hiệu. Tháo tùy khẩu viết "Kê lặc! Kê
lặc!".Đôn truyền lệnh chúng quan
đô xưng "Kê lặc". ) Trong nguyên bản rơ ràng là chữ
kê lặc 雞 肋 chứ
không phải chữ kê cân 雞 筋. Chữ
lặc 肋 có nghĩa là xương, c̣n cân 筋 mới có nghĩa là gân, hai chữ
chỉ hơi giống nhau. Nh́n vội dễ có
thể đọc nhầm. Nhưng sở dĩ tôi
vẫn dịch là "gân gà", không câu nệ
phải dịch đúng nghĩa là "xương
gà", một phần v́ thương tiếc hai
chữ "gân gà", mà tôi cho là tuyệt cú mèo
và thích hợp với văn cảnh và ư của
cốt truyện, mà người dịch giả vô
danh đă cố t́nh sử dụng một cách
khéo léo, thần t́nh. Hai nữa, cũng để
hoài cảm bộ sách cũ, tôi đă cố
để dành tiền mua được, rồi
giữ ǵn, bảo quản, đóng b́a mạ gáy,
mang theo khi vào Nam, sau 1975 bị nạn phần thư,
chung một kiếp bạc mệnh, không c̣n
nữa. Ôi! Cái t́nh "Trung thư hữu nữ nhan như
ngọc 中
書 有 女 顏 如 玉" là thế đấy!
Cố nhân hề cố nhân! Năm thân sắp qua, năm dậu sắp lại, con
khỉ đi con gà đến, gọi là có dúm
chữ nho, trả món
nợ cuối năm, và để tạ cái t́nh
của người bạn vong niên, anh đến
thăm em một chiều mưa, chẳng có ǵ
đăi đằng, ngoài tách trà "đinh"
đắng chát. Phần
chú thích Tào
Tháo
曹
操
Tào
Tháo tức Ngụy Vơ Đế, sinh năm 155 CN,
là một chính trị gia, quân sự gia, thi nhân
đời Tam Quốc, người đất Tiêu,
tự là Mạnh Đức, tiểu danh A Man,
vốn họ
Hạ Hầu, cha là Tung làm con nuôi con nuôi hoạn
quan Tào Đằng, nhân thế mới mang họ Tào.
Cuối thời Đông Hán, Tháo trấn áp
giặc Khăn Vàng, để khuyếch trương
lực lương quân sự của ḿnh. -
Năm 192 CN, Tháo chiếm cứ Duyện Châu,
rồi phân hóa và dụ hàng được
một bộ phận quân đội của
giặc Khăn Vàng ở Thanh Châu, rồi lập
thành "Thanh Châu Binh". -
Năm 196 CN, Tháo đón vua Hiến Đế
về Hứa Đô (nay là thuộc phía đông
Hứa Xướng tỉnh Hà Nam), rồi lấy
danh nghĩa của Hiến Đế để ra
lệnh cho chư hầu. Trước sau, Tháo tước
trừ thế lực cát cứ của Lă Bố,
đại phá lực lượng thế tộc
quân phiệt cua Viên Thiệu tại trận Quan
Độ, dần dần thống nhất
được miền bắc Trung Quốc. -
Năm 208 CN, Tháo lên làm Thừa Tướng,
xuất quân đánh miền Nam, bị liên quân Tôn
Quyền, Lưu Bị đánh bại ở
trận Xích Bích. -
Năm 216 CN, Tào Tháo được phong Ngụy Vương.
Khi mất, con là Tào Phi, cướp ngôi nhà Hán và
xưng đế, truy tôn Tháo là Vơ Đế. Trong
thời gian cai trị ở phía bắc Trung
Quốc, Tào Tháo cho lập đồn điền,
hưng tu thủy lợi, giải quyết đựơc
vấn đề thiếu thốn lương
thực. Ông lại biết dùng người có tài,
đả phá cái quan niệm coi trọng thế
tộc môn đệ, chiêu mộ những nhân
vật trung và hạ tầng địa chủ,
ức chế bọn cường hào, gia cường
trung ương tập quyền, khiến cho
bắc phương xă
hội, kinh tế khôi phục và phát triển. Là
một nhà quân sự có tài, Tào Tháo từng
viết "Tôn Tử Lược Giải",
"Binh Thư Tiếp Yếu". Ông c̣n giỏi
về thi ca, có nhiều bài thơ được
người đời yêu thích truyền tụng
rất rộng như "Tang Thương
Hải", "Đoản Ca Hành", được
xưng tụng là "Kiến An Phong Cốt",
hiện nay c̣n "Ngụy Vơ Đế
Tập". Nhưng
về mặt đạo lư cũ, Tháo bị coi là
kẻ gian hùng, bất trung bất nghĩa, có
nhiều thủ đoạn. Tháo
mất năm 220 CN. Tôn
Quyền 孫
權 Ngô
Quyền là người kiến lập ra nước
Ngô thời Tam Quốc, tự là Trọng Mưu,
người Phú Xuân Ngô
Quận (nay Phú Dương tỉnh Triết Giang).
Cuối đời Đông Hán, Tôn Quyền kế
nghiệp người anh là Tôn Sách, chiếm
cứ sáu quận Giang Đông. -
Năm 208 CN, Tôn Quyền hợp binh với Lưu
Bị đại phá Tào Tháo ở trận Xich Bích.
-
Năm 222 CN, trong cuộc chiến Ngô Thục,
tại trận Di Lăng, Quyền dùng hỏa công
đại phá hơn bốn chục doanh trại
của Lưu Bị, tận diệt thuyền bè,
khí giới và quân tư, khiến cho Lưu Bị
phải chạy về Bạch Đế Thành(nay là
Phụng Tiết tỉnh Tứ Xuyên), năm sau th́
mất. -
Năm 229 CN, Quyền xưng đế ở Vơ Xương,
lấy quốc hiệu là Ngô. Sau rời đô
đến Kiến Nghiệp (nay là Nam Kinh tỉnh
Giang Tô). Trong
thời gian ở ngôi, Quyền từng
phái hàng hải liên hệ với Di Châu (nay
là Đài Loan). Thái Thú Sĩ Nhiếp ở Giao
Chỉ cũng từng đem ngọc trai, sừng
tê, ngà voi, cùng trái cây quư giá cống cho
Quyền, được Quyền khen ngợi và
phong cho chức Long Biên Hầu. Để
thúc đẩy phát triển, Quyền thiết
lập nông quan, thực hành đồn điền,
nhưng v́ h́nh pháp tàn khốc, và phú thuế
nặng nề, nên thường xấy ra các
cuộc nổi dậy chống đối của
dân chúng. Năm
252 CN, Tôn Quyền mất, ở ngôi ba mươi
mốt năm. Con là Tôn Lượng kế vị,
truy tôn là Đại Đế, người đời
thường gọi là Ngô Đại Đế. Lưu
Bị 劉備 Lưu Bị tức Chiêu
Liệt Đế, sinh năm 161 CN, là người
kiến lập ra nhà Thục Hán đời Tam
Quốc, tự là Huyền Đức, người
Trác Huyện Trác Quận (nay thuộc Hà Bắc, là
họ một chi xa với hoàng tộc. Thuở
nhỏ, Bị nhà nghèo, theo mẹ sống bằng
nghề bán giầy và dệt chiếu. Cuối
thời Đông Hán, Lưu Bị khởi binh, tham
dự trấn áp
giặc Khăn Vàng. Trong cuộc hỗn chiến
của các quân phiệt thời đó, Bị
từng đến nương nhờ Công Tôn
Toản, Đào Khiêm, Tào Tháo, Viên Thiệu, và Lưu
Biểu. Sau Lưu Bị nghe kế
của Gia Cát Lượng chủ trương
"liên Tôn cự Tào" đánh bại Tào Tháo
ỏ trận Xích Bích năm 208 CN, rồi
chiếm lănh Kinh Châu, lực lượng dần
dần trở nên lớn mạnh. Sau đó,
Bị đánh chiếm Ích Châu, Hán Trung. Năm 221 CN, Lưu Bị
xưng đế, đóng đô ở Thành Đô,
đặt quốc hiệu là Hán, sử quen
gọi là Thục Hán. Trong cuộc chiến tranh
Ngô, Thục, Lưu Bị đại bại ở
trận Di Lăng, năm 223 CN bị
bệnh mất. Tam
Quốc Chí Diễn Nghĩa 三
國
志
演
義 Trường
biên lịch sử tiểu thuyết. Nguyên toàn
danh xưng là Tam Quốc Chí Thông Tục Diễn
Nghĩa, hoặc Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa. Tam
Quốc Chí là loại lịch sử
tiểu thuyết mở đầu trong văn
học Trung Quốc, do La Quán Trung soạn vào
thời Minh Mạt Thanh Sơ. La Quán Trung đă căn
cứ vào sách Tam Quốc Chí của Trần
Thọ đời Tây Tấn và do Bùi Ṭng Chi chú,
cùng sách Tam Quốc Chí B́nh Thoại đời
Nguyên mà viết thành. Bản
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa lưu hành hiện
nay là do Mao Tôn Cương đă tu đính và
sửa chữa. Cố sự bắt đầu
từ truyện Lưu Bị, Quan Vũ, và Trương
Phi kết nghĩa vườn đào, đến Vương
Tuấn b́nh Ngô, trải qua gần một nửa
thế kỷ. Tác
giả đă vẽ
lại cho người đọc thấy rơ
những cuộc đấu tranh quân sự
giữa các sứ quân và t́nh h́nh chính
trị phức tạp của thời kỳ Hán
Mạt và Tam Quốc, đồng thời thành công
nặn ra được hàng loạt
những nhân vật mang những h́nh tượng
điển h́nh, rơ rệt như Tào Tháo, Gia
Cát Lượng, Quan Vũ, Trương Phi v. v... Tác
phẩm có nhiều chương tiết rất
sống động, bóng bẩy. Như “Lưu,
Quan, Trương, tam anh chiến Lă Bố”, “Tam
cố thảo lư”,
“Xích Bích chiến”. Toàn
truyện có rất nhiều chi tiết khúc
chiết, kết cấu hoằng đại, nhưng
bố cục rơ ràng, mạch lạc, được
vinh dự coi là “Đệ nhất tài tử thư”.
Truyện
có cả thẩy
1191 nhân vật có danh có tính, chia ra: -
436 vơ tướng -
456 văn quan -
128 nhân vật là tôn thất, hoạn quan, cung phi. -
67 người thuộc các sắc tộc ngoài biên,
như Tiên Ty, Khương. -
109 nhân vật thuộc các tam giáo cửu lưu. Chủ
đề của Tam Quốc Diễn Nghĩa
lấy tư tưởng chính thống “tôn Lưu
biếm Tào”, và coi cuộc nổi dậy Hoàng Cân
là làm loạn, làm giặc, lấy trung hiếu
tiết nghĩa làm tiêu chuẩn, và coi thuyết
"Thiên hạ qui nhất", "hợp
cửu tất phân, phân cửu tất hợp"
là xu thế tất nhiên của qui luật phát
triển lịch sử. Tam
Quốc Chí Diễn Nghĩa đă được
dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế
giới, được quảng đại
quần chúng hâm mộ ưa thích. Ở Việt
Nam, có ít nhất sáu bản dịch khác nhau. La
Quán Trung 羅
貫 中 Là một tiểu thuyết gia thời
cuối đời Nguyên, đầu đời
Minh, tác giả "Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa",
tên là Bổn, tự là Quán Trung, hiệu là
Hồ Hảo Tán Nhân, người Thái Nguyên
tỉnh Sơn Tây. Cuộc đời b́nh sinh
của ông chưa có tài liệu nào nhắc đến.
Tương truyền, ông từng là học tṛ
của Thi Nại Am, ít giao thiệp với người
đời, chịu ảnh hưởng sâu đậm
của tư tưởng nho gia, mang trong ḷng hoài băo
pḥ vua giúp nước, để tạo nên
sự tạo nên sự nghiệp. Cả cuộc
đời ông, để hết ḷng vào việc sáng
tác văn học. Ông soạn hơn mười
bộ tiểu thuyết, hiện c̣n lại: - Tam Quốc Chí Thông Tục Diễn Nghĩa
tức Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa. - Tam Toại B́nh Yêu truyện. - Tùy Đường Chí truyện. - Tàn Đường Ngũ Đại
Sử Diễn Nghĩa. - Phấn Trang Lầu. Trừ hai bộ truyện đầu c̣n
bảo lưu được
nguyên diện mạo của nguyên tác, các bộ
sau bị hậu
nhân san cải, sửa chữa nhiều lần, không
c̣n giữ được nguyên dạng lúc đầu
nữa. Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa là bộ
trường thiên tiểu thuyết lịch sử
vĩ đại nhất của Trung Quốc, hưởng
một vinh dự lớn trong văn học sử,
và ảnh hưởng thâm sâu đối với
hậu thế. Liêu
Trai Chí Dị 聊
齋 志 異 Tên một cuốn tiểu thuyết
gồm các truyện ngắn viết bằng văn
ngôn, tác giả là Bồ Tùng Linh, đời Thanh
trước tác, cộng 431 truyện. Tác giả
đă dựa vào những truyền thuyết dân
gian, dă sử, dật văn, lấy đời
sống sinh hoạt người dân hạ tầng
và trung tầng làm chủ thể, rồi dùng trí
tưởng tượng độc đặc
hiếm hoi của chính ḿnh mà dựng nên
những câu truyện hồ ly, ma quỷ, hoa yêu,
với mục
đích để: - Phơi bầy ra ánh sáng những
hủ bại hắc ám ở chốn quan trường,
và sự cai trị tàn bạo độc ác
của nhà cầm quyền Thanh Triều. - Chọc cười, phóng thích những
phong tục hủ bại, giả đạo đức,
đày tác hại của lễ giáo phong kiến,
cũng như những tệ đoan của
chế độ khoa cử. - Tán tụng t́nh yêu chân chính và đề
cao tự do luyến ái, tự do kết hôn
cuả thanh niên trai gái. Liêu Trai Chí Dị phản ánh rơ ràng
diện mạo xă hội Trung Quốc ở
thế kỷ thứ 17, và thông qua những câu
truyện ma quỷ, hồ ly, tác giả
muốn thổ lộ nỗi niềm "cô
phẫn" của ḿnh đối với xă
hội đương thời. Những câu truyện được tác
giả thuật lại bằng lối văn ngôn
điêu luyện sâu sắc, lăng mạn, những
lời đối thoại được diễn
tả sống động, truyền thần,
với những t́nh tiết ư vị, hư hư
thực thực, thắt cởi, lên xuống,
dẫn đưa người đọc mê say,
đi từ ngạc nhiên này, đến ngạc
nhiên khác, khiến cho tác phẩm tiếp nối
được truyền thống truyền kỳ
và trở thành ngọn đỉnh phong của
lối văn truyền kỳ chí quái cổ xưa
của văn học Trung Quốc. Tác phẩm sau khi ra đời được
hơn hai trăm năm, được quảng
đại độc giả hỷ hoan ái mộ,
cùng lưu truyền các nước trên thế
giới như Anh, Phap, Đức, Ư, Mỹ,
Nhật, Nga, Việt Nam v. v. đều có những
bản dịch. Riêng ở Việt Nam ước
chừng có hơn mười bản dịch khác
nhau. Có bản nhiều truyện, có bản ít
truyện, tùy người dịch. Liêu Trai là tên pḥng đọc sách
của Bồ Tùng Linh, nên ông lấy đó làm tên
sách, và v́ thế Bồ Tùng Linh c̣n có hiệu là
Liêu Trai Tiên Sinh, và Liễu Tuyền Cư Sĩ.
Đa số những truyện cuả ông là
viết về quỷ ma, quái dị, nên gọi là
Chí Dị. Bồ
Tùng Linh
蒲
松 齡 Bồ Tùng
Linh là văn học gia đầu đời Thanh,
tác giả truyện "Liêu Trai Chí Dị",
tự là Lưu Tiên, một tự khác là Kiếm
Thần, hiệu là Liễu Tuyền Cư Sĩ,
người đời thường gọi ông là
Liêu Trai Tiên Sinh, người Truy Xuyên. Có
thuyết cho rằng ông là người Mông
Cổ, hay Hồi tộc, xuất thân từ
một gia đ́nh phú hào đă bị suy vi, và
thuộc phần tử trí thức. Ông có tài cao
từ hồi c̣n trẻ, dốc chí thi cử, năm
mười chín tuổi thi đậu tú tài, sau
đi thi nhiều lần không đậu, măi đến
năm bẩy mươi mốt tuổi mới
đậu cống sinh, bốn năm sau th́ qua
đời. Một
đời Bồ Tùng Linh lấy nghề dậy
học mưu sinh, lao đao sầu cùng. Nhân v́
khoa cử bất đắc ư, lại thấy quan
trường tham tàng uổng pháp, mà nhân dân th́
thống khổ nghèo khổ, ông bèn mượn
những h́nh ảnh của hồ ly, ma quỷ, yêu
quái, viết truyện "Liêu Trai Chí Dị",
để trút bớt niềm cô phẫn, bất b́nh
ở trong ḷng. Sau hai mươi
năm, th́ "Liêu Trai Chí Dị "được
hoàn thành. Truyện được viết
bằng một bút pháp lăng mạn, phơi bầy
những tội ác hắc ám của nhà cầm
quyền, công kích những tệ đoan hủ
bại của khoa cử, cùng chủ trương
tự do luyến ái, phản ánh những sinh
hoạt xă hội của thời kỳ đó. Liêu
Trai Chí Dị là
tuyệt đỉnh của loại văn ngôn
đoản biên tiểu thuyết của Trung Hoa, có
ảnh hưởng sâu rộng với hậu
thế. Nhiều người đă mô phỏng Liêu
Trai Chí Dị để viết nên những tác
phẩm riêng
của ḿnh, như "Dạ Vũ Thu Đăng
Lục" của Tuyên Đỉnh, "Ṭng
Ẩn Mạn Lục" của Vương Thao,
"Dạ Đàm Tùy Lục" của Ḥa Bang
Ngạch. "Huỳnh Song Dị Thảo"
của Trường Bạch Hạo Ca Tử (Chúng
tôi đă dịch một số truyện trong
những tác phẩm này.) Ở
Việt Nam có sách Truyền Kỳ Mạn Lục
của Nguyễn Dữ gồm hai mươi hai
truyện, cũng viết theo thể văn ngôn
đoản biên tiểu thuyết, mà theo Trần văn
Giáp th́ chịu ảnh hưởng của
Nguyễn Nho, ra đời
từ thời Lê, trước cả "Liêu
Trai Chí Dị". Phạm xuân Hy * Bài viết của anh Phạm Xuân Hy, một nhà nghiên cứu văn hóa Đông Phương ở Paris, trước có làm cho Quỹ Bảo Hiểm Xă Hội (Securite Sociale) của Pháp, nay đă nghỉ hưu. Anh Hy là thân hữu của sempai Đào Hữu Dũng (Japan). Anh Hy đă đồng ư chia sẻ trên ERCT trong số báo Tết Ất Dậu này. Xin cám ơn anh Dũng và anh Hy. * Bài viết được bổ túc ngày 10 tháng 2 năm 2005. Cảm tưởng về thơ văn của anh Phạm Xuân Hy xin gởi về pxhy@erct.com
Ư kiến bạn đọc :
ERCT mến Tôi cũng
xin mạn phép tâm sự một chút. Sở
học của tôi c̣n nhiều thiếu sót
lắm. Sở dĩ là v́, tôi từ bé, gặp
buổi loạn ly, nhà lại bần hàn, không
được học nhiều ở nhà trường.
Phần lớn là tự học. Kể cả cái
vốn Hán Nôm, cũng chẳng phải là do
cửa Khổng hay
sân Tŕnh nào đào tạo ra. Cũng chẳng có
đồng môn bạn bè ǵ. Tôi mua sách về
học theo lời chỉ bảo của cụ
Nguyễn Hiến Lê, là muốn học một môn
sinh ngữ nào, cách hay nhất là vừa học
vừa dịch. Đôi khi, gặp những chữ Hán
không có trong tiếng Việt, hay những từ
ngữ điển cổ, nếu dịch tùng
chữ sẽ lụng cụng vô nghĩa, tôi
buồn mà phải gượng ép diễn
dịch, cho thoát nghĩa thôi. Chẳng biết các
dịch giả khác, gặp trường hợp như
tôi th́ họ làm ǵ. Vă lại, đó cũng là cách
tôi mua vui trong lúc hưu trí về già, tóc đă
phôi pha đổi màu sương tuyết,
cái "cỗ lai hy"ngấp nghé cửa ngơ,
chứ không cầu điều ǵ khác. Cũng may,
lại được bạn đọc thương
chiếu cố. Nhưng bảo tôi là một
"nhà tinh thông Hán học”,hay “một nhà nghiên
cứu nghiêm túc”, hoặc " nhà nghiên cứu
văn hóa Đông Phương”. Quả thực tôi không dám nhận, v́ biết ḿnh không
được như vậy. Anh có
thể chuyển lá thư này cho bạn độc
giả, và cho tôi gửi lời cám ơn
nhiều. Thân ái. Hy ........ Ư kiến của anh ĐHD Anh Hy quá khiêm tốn. Thật ra chữ HUNG có cả nghĩa "ngực" và "bụng"hay "trong ḷng". Người Nhật dùng nghĩa "ngực" nhưng người Trung Quốc dùng cả ba nghĩa. Trong chữ "binh giáp tàng hung trung"th́ phải dịch "thao lược đầy ḷng" vv.. Dĩ nhiên trong trường hợp này th́ bạn đọc Ex-Ryu của chúng ta có lư. Nếu tôi dịch th́ chỉ dịch thoát là "luồn tay vào trong áo". Nói cho vui vậy thôi.
|