KÍNH NHI

 敬 兒

Nguyên tác     : Huỳnh Song Dị Thảo
Tác giả            : Trường Bạch Hạo Ca Tử
Bản dịch của  : Phạm xuân Hy

                                         Một ngọn đèn xanh lửa đóm, hắt hiu tranh sáng với loài ma, 
                                              
Bao phen dặm cát bụi hồng, tất cả khêu cười cho lũ qu

                                                             Liễu Tuyền Cư Sĩ BỒ TÙNG LINH

 

 

Cao tăng Thiệu Bổn Nhất ở Linh Ẩn Tự, đạo hạnh tinh thông nghiêm túc, gốc người Thiểm Tây. Thuở c̣n trẻ từng là học tṛ trường huyện, nhân v́ ái mộ vùng đất Giang Nam là nơi văn hoá phát đạt, nhân t́nh đông đúc, bèn thuê thuyền suôi nam, để t́m thầy học bạn.

Được vài năm, th́ ngộ đạo, mới cắt tóc vào chùa quy y. Sau khi đă tu qua một số chùa chiền, chừng đến vùng Triết Giang th́ trở thành một vị cao tăng danh vọng trong giới thiền môn. Người Hàng Châu mộ danh ông , mới đón ông về Linh Ẩn Tự. Ngày nay thường gọi ông là Định Tâm Đại Sư.

Trước đó, đại sư có một người con tên là Tục. Lúc ông rời Thiểm Tây, Tục c̣n đang chập chững học ḅ. Nên khi trưởng thành, Tục thường lấy làm ân hận không biết mặt cha. Chàng hết ḷng hỏi han t́m kiếm suốt vùng Giang Hoài mà không gặp.

Sau, Tục nghe tin thân phụ ở Linh Ẩn Tự ở Hàng Châu, mới đáp thuyền suôi nam t́m đến.

Đi cùng thuyền với chàng, có một gă thiếu niên mặt mũi đẹp như con gái, tự xưng là họ Cung, từ kinh đô trở về quê ở Sơn Âm, thấy Tục có ḷng hiếu thảo, th́ đem ḷng kính trọng, và cùng Tục trở thành đôi bạn tâm đầu ư hợp.

Khi đến Hàng Châu, Tục biết được chùa ngôi nơi phụ thân cư ngụ, nên vội vă t́m đến để gặp mặt ngay.

Cung xin được đi theo, Tục đồng ư cho đi. Lúc hai người vừa đến cổng chùa, đă thấy một nhà sư trẻ từ trong chùa đi ngược ra gặp, nói :

-Đại sư vừa mới nhập định tỉnh dậy, biết công tử từ xa tới đây, nhưng ngài không muốn Kính Nhi vào trước, xin vui ḷng đứng  ngoài chờ.

Tục nghe nói thế, chẳng hiểu mô tê ǵ. C̣n Cung th́ biến sắc mặt. Tục lấy làm lạ, nhưng v́ nóng ḷng muốn được gặp thân phụ sớm hơn, chẳng tiện hỏi cặn kẽ. Bèn để Cung đứng chờ  ngoài cổng, đi vào một ḿnh. Chừng vào đến pháp đường, Tục thấy một vị thiền sư già đang ngồi bắt hai chân lên đùi nhập định. Chàng vốn chưa hề biết mặt cha bao giờ, th́ vị sư trẻ bảo chàng :

-Đại sư đây , chính là cha của công tử đấy !

Tự nhiên, Tục thấy một niềm sót sa thương cảm, bèn quỳ xuống ôm lấy chân vị sư già mà khóc rống lên.

Vị đại sư sua tay, bảo chàng :

-Đừng reo mầm nghiệt căn, hăy đứng dậy. Ta đang an nhàn vui vẻ, con đáng lẽ phải lấy làm mừng, hà tất lại khóc lóc như thế.

Rồi bảo Tục ngồi xuống, vắn tắt hỏi han tin tức về những thân tộc trưởng bối, cùng những bạn bè đồng học ngày xưa. Tục nhất nhất hồi đáp.

Bỗng đại sư chau mày, nói :

-Con từ xa đến đây vất vả, đủ rỏ ḷng hiếu thuận của con. Nhưng con muốn đến th́ con cứ đến. Chứ sao dẫn theo Kính Nhi đến làm ǵ cho thêm phiền cha vậy ?

Tục vi vă phủ phục xuống đất, bẩm bạch sự vô t́nh không biết , cùng xin được rơ duyên cớ.

Thiền sư nói :

-Cung chính là chồng của Kính Nhi, và Kính Nhi là vợ của Cung, nhưng đó là một con chồn đồng. Cả hai v́ t́nh dục mà quấn quưt, không rời được nhau. Chúng nhờ dựa tấm ḷng hiếu thảo của con để độ giang đến đây, ư muốn mong ta ban cho mấy lời thành toàn vĩnh hảo. Kính Nhi lúc nào cũng ở gần bên người Cung, mà phàm thai nhục nhỡn như con, không thể nh́n thấy nó được đâu !

Ngừng một lát, ông lại tiếp :

-Con chồn đồng này, tuy vậy cũng có đôi chút tài năng phong nhă, biết được ḷng hiếu thảo của con. Thôi ta cũng chẳng tiếc manh bùa giấy làm ǵ .

 

Rồi bảo đem ra một tờ giấy mầu vàng, viết lên đó mấy chữ, trao cho vị sư trẻ đứng hầu, và dặn :

-Ngươi đem tờ bùa này trao cho hắn, và bảo hắn thôi không được quấy nhiễu lâu ở chốn không môn này nhá.

Vị sư trẻ vâng lời, cầm lá bùa đi ra trao cho Cung. Cung tỏ ra mừng rỡ , bái tạ rồi biến mất.

Tục ở lại Linh Ẩn Tự hơn một tháng, th́ vị thiền sư bảo chàng phải trở về quê.

Nói :

-Con trở về nhà trông nom phụng dưỡng mẹ con, cũng coi như là hầu hạ ta vậy. Nơi đây là chỗ ở của kẻ xuất gia, con không nên ở lại thêm nữa.

Tục có ư quyến luyến, không muốn trở về, bị thiền sư quở trách mới đành phải lên đường trở về Thiểm Tây. Khi gặp lại mẹ chàng, th́ bà vẫn mạnh khoẻ khang an như cũ. Chàng sống ở nhà với mẹ vài năm nữa, rồi lại nẩy ḷng thương nhớ thân phụ , bèn lên đường đi Hàng Châu lần nữa . Nhưng đến nơi, th́ cha chàng đă vân du xuống miền Nam rồi, không biết tỉnh nào. Chàng v́ nhớ thương cha tha thiết, , nên cũng theo tiếp xuống miền nam. Lúc đến Sơn Âm, giữa đường th́nh ĺnh gặp một người cưỡi ngựa, áo quần hoa lệ sang trọng, ṭng bộc tiền hô hậu ủng, trông quen quen. Té ra , chẳng ai khác, chính là người đă cùng chung thuyền với chàng năm xưa.

Cung trông thấy Tục, lập tức xuống ngựa, phủ phục ở ven bờ đường, nói ;

-Ân huynh , chẳng hay từ ngày cách biệt, có được mạnh khỏe không ?

Tục cũng vội vă cúi xuống nâng Cung dậy, nói :

-T́nh nghĩa cố tri, sao huynh lại khách khí với nhau như thế làm ǵ .

Cung đáp :

-Công đức của ân huynh và lệnh tôn đối với đệ, thật cao dầy như trời đất. Mỗi khi nhớ đến, mà không có dịp báo đáp, đệ thường lấy làm ân hận. Lẽ đâu lại dám cao ngạo tự tôn.

Rồi cố khẩn khoản mời mọc Tục về nhà.

Tục ḷng riêng, sẵn có ư muốn t́m hiểu những điều kỳ dị về Cung, v́ thế hoan hỉ nhận lời đi theo ngay. Rồi lên một con ngựa khác, song song cùng đi với Cung. Từ chỗ đó, về nhà Cung c̣n nửa đường nữa.

Hai người vừa đi vừa tṛ chuyện. Nhân thế, Tục mới ḍ hỏi thử.

Cung cũng chẳng hề dấu diếm ǵ, đem chuyện ḿnh thuật lại hết cho Tục nghe.

Nguyên lai, Cung vốn người Triết Giang. Có người chú lên làm quan ở kinh sư, cho chàng cùng đi theo. Cung thuê mấy gian nhà ở trong núi phía tây bắc kinh thành để làm chỗ học tập. Chỗ này cảnh trí thật là tĩnh mịch và u nhă, nên chàng cứ đóng cửa ở trong nhà suốt ngày, cố công đèn sách.

Gặp hôm mùa đông tháng giá, bên ngoài tuyết đổ mù trời, Cung vừa mới đem sách ra ngồi bên ḷ sưởi i a ngâm vịnh, th́nh ĺnh có một vật như bó lửa, màu đỏ chói lọi, cao hơn cả thước, từ trên cột nhà rớt xuống đất, quay long lóc liên hồi, khiến cho thư pḥng của chàng trở nên ấm áp, rồi mỗi lúc một nóng hơn.

Cung thấy thế cả kinh, lo ngại nhà bị cháy, nên có ư chạy ra  ngoài để trốn. Nhưng bó lửa bỗng tự dưng thu nhỏ lại, rồi hóa ra một bà lăo tóc bạc, quần áo sơ sài giản dị, đến trước mặt Cung , chắp tay vái chào. Cung ngờ là yêu núi tác sùng, càng thêm sợ hăi, muốn lẩn tránh cho lẹ , th́ bà lăo dang tay chặn lại, bảo chàng :

-Cậu đừng có sợ , lăo không phải là kẻ làm hại người đâu. Lăo thấy cậu sớm khuya sách đèn tịch mịch đơn chiếc, mà lăo th́ có đứa con gái tên là Kính Nhi, tính ham thích văn chương bút mực, ư muốn đem gả cho cậu về hầu khăn lược, mong được tiến bộ về sau, nên mới vội vàng hấp tấp đến t́m cậu. Chẳng biết cậu có bằng ḷng hay không ?

Cung càng ngạc nhiên sợ hăi thêm, cố thoái từ, nói :

-Cháu là kẻ hạ sĩ bất tài, học hành chưa đạt, chỉ e làm lỡ con gái yêu của cụ. Vả, lai lịch tông tích của cụ kỳ bí khó hiểu, thêm điều canh cánh âu lo, lẽ đâu lại dám nhận lời. Mong cụ thương t́nh mà tha thứ cho !

Bà lăo vốn tính nóng nẩy, tựa hồ như không muốn nghe lời giải thích của Cung, giận giữ nói :

-Con ta như tiên nữ nhà trời, gả cho đứa tiểu tử như ngươi, lại c̣n lẻo mép từ chối. Ngươi há lại không thấy oai phong vừa rồi của ta, có thể đốt ngươi thành tro hay sao ?

Nói xong, hai mắt bừng bừng nh́n Cung, trợn trừng như mắt trâu. Càng làm cho Cung thêm sợ.

Giữa lúc Cung chưa biết xử trí cách nào cho thỏa đáng. Chợt có đứa tỳ nữ, trang phục hoa lệ, diện mạo xinh xắn , từ ngoài đi vào, vừa cười vừa bảo với bà lăo :

-Cụ ép hôn như thế này, chỉ làm tổn cái t́nh kháng lệ, cái nghĩa vợ chồng của người ta. Đâu phải là phương cách hay. Thôi, xin cụ về đi, cô Kính sẽ tự đến.

Và bâng quơ nói tiếp :

-Cháu biết trước tính cụ nóng nẩy, tất sẽ hỏng việc.

Rồi pḥ bà lăo ra  ngoài, nhưng bà lăo vẫn c̣n tỏ vẻ hậm hực tức giận. Hai người ra khỏi cửa chừng vài bộ th́ biến mất.

Lúc đó, Cung cảm thấy tinh thần, mật gan tưởng chừng vỡ nát. Chàng tính xuống núi vào thành. Nhưng tuyết vẫn tiếp tục rơi lả tả đày trời, làm tắc nghẽn sơn đạo, ngựa xe không thể nào đi lại được. C̣n người lăo bộc của chàng th́ đă vào thành mua sắm lương thực than củi mất rồi. Ở nhà, trừ chàng, chỉ c̣n đứa tiểu đồng hơn mười tuổi, đâu có thể làm ǵ được hơn. Bất đắc dĩ, chàng đành ngồi yên chờ đợi. Sống chết phó mặc trời đất.

Chừng đến chiều, tuyết đă hơi tan, chàng đóng cửa lên giường, tính tạm thời đánh một giấc, sáng mai dậy dọn đi nơi khác. Nhưng tâm thần cứ phập pḥng hồi hộp, trằn trọc măi không sao ngủ được, th́ nghe có tiếng búng tay gơ cửa cạch cạch, rồi có tiếng người ca vọng vào.

Lời ca rằng :

Thán không khuê hề yểm cô kềnh

嘆 空 閨 兮 掩 孤 檠

Vọng y nhân hề vi tố thành

望 伊 人 兮 違 素 誠

Phạt kha phạt kha hề kỳ âm đinh đinh

伐 柯 伐 柯 兮 其 音 丁 丁

Quả đắc tương tuỳ hề ngă nguyện khanh khanh

果 得 相 随 兮 我 愿 卿 卿

 

Thanh âm nghe yêu kiều uyển chuyển, mà dư vận du dương trầm bổng, chừng như vấn vít măi bên tai chàng không dứt.

Cung đoán thầm là Kính Nhi.

Chàng ghé mắt nḥm qua khe cửa. Chỉ thấy bên ngoài, giữa cảnh tuyết trắng mênh mông, trong sáng như trăng soi đêm rằm, có một người con gái, tóc vấn buông lưng, yêu thon dáng nhỏ, vóc hạc h́nh mai, thướt tha dựa cột hiên ngoài, mà câu thơ của Đỗ Phủ ''Thiên hàn thúy tụ bạc, nhật mộ ỷ tu trúc '', dùng mô tả người giai nhân tuyệt đại trong sơn cốc, chắc cũng chỉ đẹp như người con gái này thôi.

Cung thầm mừng trong bụng, nhưng nhớ đến sự dữ tợn của bà lăo ban sáng, th́ lại trù trừ gan thỏ , im lặng chẳng dám ho he ǵ.

Một lát sau, lại nghe người con gái cất tiếng hát :

Tuyết dục t́nh hề vân vi

雪 欲 睛 兮 雲 微

Điểu bất túc hề song phi

鳥 不 宿 兮 雙 飛

Nại hữu nhân hề nguyện cô vi

奈 友 人 兮 愿 孤 幃

Ngă bất kiến hề hựu không quy

我 不 見 兮 又 空 歸

 

Hát xong, buông một tiếng thở dài nhè nhè, quay người muốn trở về. Cung thấy thế, không dằn ḷng nổi, lớn tiếng gọi lại :

-Khanh muốn t́m tớ, th́ tớ ở đây, sao lại phải đi t́m ở đâu ?

Người con gái nghe Cung gọi, bèn quay người lại, đứng  ngoài song cửa, nói vọng vô :

-Thiếp bị người ta cự tuyệt mấy lần, thật cũng xấu hổ, chẳng lẽ không đi về, chứ nào có giận hờn ǵ ai !

Cung vội vă khoác áo, xuống giường, ra mở cửa , cầm tay người con gái, mời vào. Lúc bấy giờ, ngọn đuốc tàn trong nhà vẫn c̣n lung linh, chưa tắt. Chàng sờ lần đùa cợt, thấy thịt da không béo, mà nhẵn mịn như ngọc. Mặt không thoa phấn, mà kiều diễm như hoa, mỗi lời nói là một tiếng cười. Nhất nhất đều tỏ ra khả ái , làm mê động ḷng người. Khách pḥng the ;không dễ t́m được người thứ hai như thế.

Nhân vậy, mới hỏi :

--Khanh có phải là Kính Nhi không ?Giả như bà lăo đừng có quá hung hăn, th́ hảo sự của đôi ta đă sớm thành rồi.

Kính Nhi cười :

-Chàng sao mà lớn mật nhỉ !Thiếp mà chẳng tự t́m đến, th́ việc vui đừng có ḥng.

Cung muốn d́u nàng lên giường, nhưng nàng thoái thác nói :

-Thiếp c̣n ít tuổi, chàng chớ có lộn xộn ồn ào.

Rồi lấy ra một tập bản thảo, bảo với Cung :

-Tập thơ này do thiếp viết ra, nhưng vẫn tự thẹn là không có người chỉ bảo, nay xin chàng sửa chữa lại cho, ba ngày sau thiếp xin lấy lại. Chớ có dùng những lời khen ngợi mà đánh lừa thiếp đấy nhá !

Rồi vái chào Cung, lui ra. Thoáng chốc không c̣n thấy đâu nữa.

Cung đọc những bài thơ nàng làm. Thấy văn từ tú lệ. Ngôn từ lưu loát, t́nh tứ , lấy làm đắc ư mê say. Sáng hôm sau dậy, Cung mở tập bản thảo của Kính Nhi ra, dùng bút son b́nh điểm, tử tế thêm vào những lời bàn luận cho rơ, rồi không c̣n có ư dọn nhà đi nơi khác nữa.

Đến tối hai ngày sau, quả nhiên Kính Nhi đến thật.

Cung hoàn trả lại tập thơ cho nàng, nói :

-Theo ư khanh, ta đă sửa chữa đôi chút, nhưng lời thơ như hàng châu chuỗi ngọc, ta không thể không khen ngợi được !

Kính Nhi đọc lại những chỗ Cung đă b́nh, tươi cười nói :

-Quả danh bất hư truyền !

Nói xong, tính ra về. Nhưng Cung ngăn cản, kéo nàng lại, cởi bỏ giải quần cho nàng.

Kính Nhi vừa thẹn thùng vừa nói :

-Con gái mới mười lăm mà đă vội gả cho Ngọc Xương rồi !Thật rơ là nghiệt oan tiền kiếp.

Rồi cùng nhau lên giường mây mưa quấn quít, tận hưởng lạc thú trần gian.

Việc xong, Cung mới hỏi nàng về bà lăo là người như thế nào.

Nàng đáp :

-Bà ấy là nghĩa mẫu của thiếp, họ Cổ, người ở trong thôn này .

Cung nói :

-Bà ấy oai phong dữ tợn quá, nhớ lại vẫn c̣n sợ.

Kính Nhi thú vị, trào phúng nói :

-C̣n chàng tối nay, cũng oai phong dễ sợ, đâu có thua ǵ !

Rồi cả hai cùng phá lên cười, gối đầu chung sát vào nhau mà ngủ.

Đến gần sáng, đứa nô t́ gơ cửa vào. Cung nhân thế cảm tạ công nàng đă giải cứu. Nó nói:

-Bà lăo ấy đần độn, vốn chẳng biết ǵ đến chuyện này, nên em đă bảo chính cô nương phải tự đến mới được.

Rồi đợi cho Kính Nhi mặc áo quần xong mới d́u nàng cùng ra về.

Từ đấy, đêm nào nàng cũng đến, càng ngày càng quấn quưt quyến luyến không rời. Kính Nhi vốn tính ham thích thi văn, những sáng tác của nàng mang nhiều t́nh tiết âm vận. Căn nhà Cung th́ quá chật hẹp, lại thêm có đứa tiểu đồng ở, khiến Kính Nhi không thể làm những ǵ ḿnh thích. Hai người chỉ đành chờ những lúc về đêm nằm giường ngủ, mà reo vần t́m điệu, ngâm nga. Hoặc chọn những ngôn từ thanh nhă thú vị để cợt ghẹo nhau. Tiếng cười nói của hai người, thường khi kéo dài suốt đêm không ngủ.

Bấy giờ , người lăo bộc già đă từ trong thành đă trở về. Lăo nghe thấy vậy, lấy làm kinh dị. Lúc trời gần sáng, lăo lén phục ở ngoài cửa ŕnh nghe. Chỉ thấy chủ nhân một ḿnh nằm ngủ co trên giường, mà cửa th́ tự động mở . Rồi có tiếng chân bước rón rén khẽ khàng đi ra, thoảng theo một mùi hương phấn nhè nhẹ. Nhưng tuyệt không thấy nhân h́nh chi cả. Lăo đâm ra hoảng sợ. Bụng nghi là ma quỉ, hay chồn tinh, nên hết lời khuyên bảo Cung dọn vào trong thành. Nhưng chàng không nghe. Lăo bèn đem chuyện mách với người chú của chàng, nhất quyết cho rằng Cung bị chồn tinh mê cảm.

Người chú sai lại dịch đến bắt chàng về. Nhưng lại dịch chưa kịp lên đường, th́ Kính Nhi đă biết trước .

Đêm ấy, nàng vừa khóc vừa bảo với Cung :

-Thiếp e hạnh phúc của đôi ta không thể vĩnh cửu được !

Cung lấy làm lạ, gạn hỏi.

Nàng đáp :

-Chuyện của chúng ḿnh, người lăo bộc già đă tiết lộ cho chú của chàng biết rồi. Chàng về, không trở lại nữa. Thiếp biết nương dựa nhờ ai ?

Cung bùi ngùi than thở , muốn Kính Nhi cùng về với chàng. Nàng từ chối nói :

-Thiếp những muốn ăn ở với chàng, nhưng thực không dám. V́ thiếp vốn là hồ ly. Mà kinh đô lại là nơi cư trú của thiên tử, thiếp không thể tự tiện đến đó được. Chàng như c̣n ḷng thương thiếp, xin cùng về nam mới được.

Lúc đó, Cung đă quen mùi ân ái t́nh trường, bỏ nàng không nỡ, chỉ bảo Kính Nhi nghĩ kế sao cho vẹn toàn.

Nàng bảo :

-Thiếp có chút tiền dành dụm, đủ để thuê thuyền và xe, có thể trở về quê nhà được, chứ chẳng nên quyến luyến chốn kinh thành này làm ǵ nữa.

Cung đồng ư ngay. Rồi bàn với nàng không mang theo một vật ǵ cả, nhân đêm khuya trời tối lẳng lặng mà đi. Người lăo bộc c̣n ở lại trong thành chưa về. Đứa thư đồng th́ ngủ say như chết, nên chẳng bị ai cản .

Hai người đi chừng được hơn một dặm, chợt thấy trong đám âm u rừng rậm, có ánh đèn lấp lánh, lúc ẩn lúc hiện, như hai bó đuốc lớn. Cung cho đó là nhà ở của người ta, chỉ cho Kính Nhi biết.

Nàng cười bảo :

-Chàng thật là người nhát nhất trên đời !Làm mất cả thể diện.

Cung c̣n chưa hiểu ư nàng nói ǵ, th́ nghe có tiếng hổ gầm vang núi, khiến Cung kinh hoàng sợ hăi, cơ hồ muốn rơi xuống đất. Kính Nhi vi vă niú chàng lại, nói :

-Có thiếp ở đây, việc ǵ mà sợ như thế.

Sau đó lớn tiếng nói :

-Con và nhà con dọn đi nơi khác, xin nghĩa mẫu bang trợ, khi trở về sẽ hậu báo.

Nói chưa dứt lời, th́ hổ đă biến mất. Cung mới hơi hoàn hồn b́nh tĩnh, bèn khôi hài bảo với nàng :

-Lúc trước nàng làm cáo mượn oai hổ, nay th́ là cáo phục oai hổ.

Chừng xuống đến chân núi, gặp một thôn trang, hai người bèn vào xin bữa cơm sáng. Tự xưng là vợ chồng, nên chẳng ai nghi hoặc ǵ cả.

Kính Nhi bỏ tiền ra mua sắm xe ngựa, y phục, rồi ṿng qua kinh đô, thẳng tới Thông Huyện. Sau đó không lâu, thuê một chiếc thuyền theo đường sông mà về miền Nam. Đến khi những sai dịch của người chú của Cung đến, th́ chàng đă rời nhà được ba hôm. Trên thuyền, Cung và Kính Nhi không c̣n bị ràng buộc , cấm kỵ ǵ nữa, thả cửa thoải mái. Khi th́ cuộc cờ dưới nguyệt, thưởng trà bên đèn. Khi th́ reo vận làm thơ, xướng họa trăng thanh gió mát, ghi lại những cảnh đẹp sơn xuyên sông nước. Hào sảng hơn so với khi mới gặp nhau.

Mới đầu, Cung c̣n phải nài ép Kính Nhi mới chịu xướng họa. Sau dần dần nàng quen, ham thích quên cả mỏi mệt .

Khi thuyền đến Giang Tô , gần vào địa phận Triết Giang, bỗng Kính Nhi tỏ ra lo lắng bảo với Cung :

-Vùng này thủy thần cai quản rất là nghiêm khắc, thiếp không thể nào qua được. Phải chờ người nào có đại phúc, xin đi chung thuyền th́ mới yên.

Cung gạn hỏi duyên cớ.

Đáp :

-Thuỷ thần vùng này là Ngũ Tử Tư Phạm Lăi, nổi tiếng là oai linh, không giống như các vị thần khác. Thiếp lấy làm sợ lắm. .

Cung không tin, cứ tiếp tục cho thuyền đi tới. Lúc vừa trương buồm lên, th́ một cơn sóng lớn ào tới, trời đất bỗng tối sầm lại, không trông thấy ǵ. Cung vô cùng sợ hăi, đành phải đ́nh thuyền lại, không dám tiến thêm nữa.

Năm ngày sau th́ gặp được chiếc thuyền nhỏ của Thiệu Tục, Kính Nhi mừng rỗ, hớn hở hiện lên sắc mặt, bảo với Cung :

-Người này đại phúc, hơn hẳn mọi người khác. Nếu chàng có thể chung thuyền quá giang được với ông ta, th́ dù có gặp trăm vị thuỷ thần nữa, thiếp cũng không lo.

Cung y lời, th́ gặp đúng lúc Thiệu Tục đổi thuyền, Cung vi thôi thúc thuyền nhân của ḿnh hô gọi Tục. Và từ đó, Kính Nhi không hiện h́nh ban ngày nữa. Nàng dặn bảo với Cung :

-Đây là con người chí hiếu, được các thiên thần thiên tướng bảo vệ, ủng hộ. Thiếp nên ẩn tránh, giữ ǵn hành tung, kẻo xẩy ra điều không hay.

V́ thế, tuy cùng thuyền với Cung, nhưng Tục không hề hay biết là Cung mang vợ theo.

Vài ngày sau , thuyền đến Hàng Châu, Tục muốn lên bắc t́m cha. Kính Nhi bảo với Cung :

-Cha ông ấy là một vị cao tăng, thiếp về quê chàng chỉ lo thổ thần ở đấy không chịu dung nạp, như được mấy chữ của vị cao tăng nói dùm, th́ thiếp mới có thể ăn ở với chàng lâu dài được.

Cung đồng ư , hết sức thỉnh cầu với Tục cho đi theo vào gặp thiền sư.

Bấy giờ Kính Nhi mới dặn bảo chàng :

-Thiếp sẽ hoá thân là chiếc quạt trắng nằm trong tay chàng. Lúc gặp thiền sư thiếp sẽ bẩm bạch, chàng đừng nói chen vào nhá.

Nhưng khi mới tới cổng chùa, Kính Nhi đă bị thiền sư phái người ra ngăn lại, bụng đâm ra lo sợ. Cũng may, lát sau vị tiểu tăng cầm ra đưa cho một tờ giấy, trên viết có mấy chữ : ''Nhất thiết thủy thổ chư thần bất đắc lan trở ''(nghĩa là tát các các thần không được cản trở). Y hệt như lệnh của quan phủ. Cung đọc tờ giấy, hớn hở mừng rỡ, cùng Kính Nhi vội vă xuống thuyền về quê.

Về đến nhà, Cung nói ngoa là được người chú cưới vợ cho ở kinh đô. Bà con thân hữu chẳng ai nghi ngờ ǵ . Khi ấy cha mẹ Cung đều đă qua đời, nên mọi việc trong nhà , đều do Kính Nhi quán xuyến. Nàng bỏ vài trăm lạng bạc ra mua sắm thêm điền sản, pḥng thất. Cung nghiễm nhiên trở thành giầu sang phú quư.

Câu chuyện này, Tục được nghe Cung kể hôm ấy trên đường đi. Măi đến lúc trời tối hẳn mới về đến nhà Cung. Tục chỉ thấy nhà cao, cửa rộng, hoằng vĩ huy hoàng. Rơ là một bậc phú gia đại hộ. Cung mời Tục vào trong nhà , bầy yến tiệc rất long trọng khoăn đăi, rồi ẵm một đứa bé ba tuổi ra cho Tục coi, nói là con do Kính Nhi sinh. Đứa bé trông mi thanh mục tú, khác hẳn những đứa bé khác. Đủ có thể đoán được nhan sắc diềm kiều của mẹ nó.

Tối hôm ấy, hai người tiệc rượu chuyện tṛ đến măi khuya, mới tan. Tục ngủ tại nhà Cung. Giường mùng, chăn chiếu rất là hoa lệ .

Hai ngày hôm sau, Tục từ giă lên đường. Cung không lưu giữ lại được, chỉ bảo :

-Miền Nam đất rộng, không chắc ǵ huynh kiếm được lệnh tôn đâu, nhưng khi về, mời huynh ghé lại chơi đàm đạo.

Rồi đưa tiễn Tục ra đến tận ngoài ấp, cùng tặng cho Tục một trăm lạng bạc. Tục không từ chối được, đành phải nhận. Sau đó xuống thuyền suôi Nam. Nhưng hải giác thiên nhai, Tục không t́m được phụ thân, trong ḷng sầu muộn không vui, bèn quay trở về, ghé vào nhà Cung , th́ vừa may gặp người lăo bộc của Kính Nhi, theo lời nàng dặn, trao cho Tục một cái gói nhỏ. Mở ra xem, té ra một chiếc ngọc Như Ư . Trắng như tuyết. Bóng loáng. Lại thêm lời nói rằng :

-Thiếp nhờ vật mọn này để báo ơn sâu. Vật biểu thị cái nghĩa trinh trắng như hoa và sự sự như ư Huynh nên cấp tốc hồi hương. Kẻo đă chẳng gặp được cha, lại không kịp thấy mẹ, mà ôm cái hận suốt đời.

Tục nghe nói thế, lấy làm kinh hăi, chẳng kịp chờ đợi Cung nữa, lên đường về quê ngay. Khi về đến nhà , mẹ chàng quả nhiên đang trên giường bệnh. Bệnh t́nh rất nguy cấp. Bà nh́n thấy Tục th́ mỉm miệng cười, rồi vĩnh viễn an giấc ngàn thu. Mới hay những lời của Kính Nhi nhất nhất đều ứng nghiệm cả.

Mỗi khi chàng đem chuyện ra kể, ai cũng ngạc nhiên.

Về sau, Tục nhận được thư của Cung bảo là v́ Kính Nhi ngại đường xa dặm thẳm, nên Cung không muốn lên kinh ứng thí cầu quan nữa, chỉ ở lại gia hương, vui thú ruộng vườn mà thôi. Tin tức về Thiền Sư, cha của Tục, cũng âm hao bằn bặt không thấy ǵ. Hoặc giả, ông đă đắc đạo thành tiên, lên chơi cơi Phật.

C̣n làm con chí hiếu như Tục, mà cũng không được thành Phật như cha chàng, há chẳng phải là điều thật đáng tiếc trong kiếp nhân sinh này du ?

 (Dịch xong ngày 19-7-2002 - PXH )

 

 

Vài nét về tác giả:

Trường Bạch Hạo Ca Tử ( 浩 哥 子) :

Cũng c̣n gọi là Hạo Ca Tử, là một tác giả gốc Măn Châu đời Càn Long, tên họ thật và đời sống bất tường. Nhưng theo “Bát Kỳ Nghệ Văn Biên Mục” ghi chú th́ Huỳnh Song Dị Thảo do Khánh Lan người Măn Châu soạn.

Khánh Lan tên chữ là Tự Thôn, là một văn sĩ nghèo, từng giao thiệp với văn học gia nổi tiếng đương thời là Viên Mai. Tuy sống âm thầm không được người đời biết đến, nhưng phụ thân ông là Doăn Kế Thiện là một đại thần nổi tiếng của Thanh triều, lịch nhậm các chức Tuần Phủ, Tổng Đốc, sau đến Văn Hoa Điện Đại Học Sĩ kiêm Quân Cơ Đại Thần.

Tác phẩm “Huỳnh Song Dị Thảo” gồm có một trăm ba mươi tám truyện ngắn, viết theo lối văn ngôn.

Mặc dầu mô phỏng theo phong cách của Bồ Tùng Linh trong Liêu Trai Chí Dị, nhưng Huỳnh Song Dị Thảo không phải là không có nhưng tác phẩm ưu tú, tư tưởng và nghệ thuật tương đối cao. Cốt truyện thường có khuynh hướng đề cao nam nữ tự do luyến ái, và đả kích cái lễ giáo của phong kiến hủ bại, nên từ lâu đă được độc giả hoan nghênh ưa thích.

Một số truyện trong Huỳnh Song Dị Thảo đă được chúng tôi phiên dịch và in trong Hậu Liêu Trai và Thiếp Bạc Mệnh trước đây.

 

 

 

Vài hàng chú thích :

 

 

Không môn (空 門 ) :

Không Môn có nghĩa là nhà chùa, chỉ chung Phật giáo. Sở dĩ Phật Giáo gọi là Không Môn là v́ Nhà Phật cho rằng mọi sự trên thế gian nay đều là không cả.

 

Tiểu tử (小 子:

Có các nghĩa :

1-Tức tiểu nhi tử, trẻ con. thơ ấu

2-Người lớn tuổi gọi lớp người ít tuổi là tiểu tử

3-Con trai.

4-Tự xưng là tiểu tử , để tỏ ư khiêm nhường. C̣n gọi người người khác là tiểu tử , th́ lại tỏ ư xem thường . Như ta nói "chú lỏi", "nhóc con", "nhăi nhép" v. v. . .

 

Ngũ Tử Tư (伍子 胥) :

Ngũ Tử Tư là Đại Phu nước Ngô thời Xuân Thu, tên là Viên, tự là Tử Tư, con của Đại Phu ước Sở là Ngũ Xá. Năm Sở B́nh Vương thất niên (tức 522 trước Công Nguyên), cha ông bị giết. Ông đến nước Ngô, trợ giúp Hạp Lư giết Ngô Vương là Liêu, chiếm đoạt đế vị, chỉnh đốn quân sự và vơ bi, nước Ngô mỗi ngày trở nên một cường thinh, ít lâu sau phá được nước Sở, và nhờ thế được phong ở đất Tư, nên c̣n gọi là Thân Tư.

Đến thời Ngô Vương Phù Sai, , Ngũ Tử Tư khuyên Phù Sai phạt Tề và không nên chấp nhận sự đầu hàng của Việt Vương, lời khuyên chẳng những không được nghe trái lại, dần dần bị Phù Sai xa lánh, .

Năm 484 trước Công Nguyên, Ngũ Tử Tư bị Phù Sai ban kiếm Chúc Lâu bắt phải tự sát. rồi vứt xác xuống biển. Theo truyền thuyết, Tử Tư bị chết oan linh hồn bất diệt, biến thành Thần Sóng, thường nổi sóng lớn hung hăn làm ngập lụt sông Tiền Đường, nhân thế được người Tầu lập miếu thờ phụng cúng tế. . Và có câu Ngũ Viên Nộ Đào (伍 員 怒 濤 ) là do điển tích này mà ra.

Ngũ Tử Tư c̣n được nghề ăn mày thờ làm tổ sư, v́ ông từng thổi tiêu ăn xin ở chợ nước Ngô (Theo sách Trung Quốc Hành Nghiệp Thần Sùng Bái ).

 

Phạm Lăi ( 范 蠡) :

Phạm Lăi tự Thiếu Bá là chính trị gia cuối đời Xuân Thu, người đất Uyển nước Sở, là Đại Phu nước Việt. khi nước Việt bị Ngô đánh bại, ông từng làm con tin ở Ngô hai năm. . Khi trở về nước Việt, ông từng giúp Việt Vương Câu Tiễn khắc khổ để lo báo phục, diệt được nước Ngô. . .

Sau đó ông từ biệt Câu Tiễn chu du Ngũ Hồ. Đến nước Tề xưng là Si Di Tử B́, đến đất Đào cải danh là Đào Chu Công, đến đâu cũng chỉ lo buôn bán làm giầu. Ông cho rằng thiên thời, khí tiết thay đổi biến hóa tùy vào sự mâu thuần của âm dương. . Và việc nước thịnh suy cũng không ngừng thay đổi.

Theo truyền thuyết th́ người đời sau cho rằng Phạm Lăi mang theo Tây Thi cùng đi. . Trong Sử Kư -Hóa Thực Liệt Truyên có truyện của ông.

Cũng theo sách « Trung Quốc Hành Nghiệp Thần Sùng Bái » th́ Phạm lăi được người làm nghề đồ gốm tôn làm tổ sư. .

 

Hạ sĩ (下 士):

Lời nói khiêm nhường.

Tự xưng ḿnh là hạ sĩ là tỏ ư khiêm nhường, cũng như chữ "hạ ngu", "hạ nhân" vậy. Chữ " hạ " có nghĩa là thấp kém, hạ tiện, v́ thế gọi t́ nữ là "hạ nữ". Người sống nơi thôn dă cũng gọi là hạ sĩ. Thành ngữ chữ Hán c̣n câu "Lễ hiền hạ sĩ 禮賢下士", có nghĩa là lấy lễ mà đối đăi với người có đức có tài, và khiêm nhượng hạ ḿnh giao thiệp với người có tài nhưng ở địa vị thấp kém.

 

Đỗ Phủ (杜甫) :

Sinh năm 712 mất năm 770.

Tổ tiên của Đỗ Phủ vốn người Tương Dương (nay thuộc thành phố Tương Phàn tỉnh Hồ Bắc), đến đời ông nội mới thiên cư đến Củng Huyện.

Đỗ Phủ là đại thi nhân đời Đường, tự là Tử Mỹ, nhân v́ từng cư trú ở Đỗ Lăng (nay thuộc huyện Trường An tỉnh Thiểm Tây, nên tự xưng là Đỗ Lăng Bố Y, cũng c̣n gọi là Thiếu Lăng Dă Lăo. Về sau để phân biệt với Đỗ Mục, hậu thế gọi ông Lăo Đỗ.

Hồi c̣n trẻ, Đỗ Phủ là người khắc khổ học tập, trí thức uyên bác, tưng du lịch khắp vùng Giang Hoài, Sơn Đông, sau vào Trường An. Năm Thiên Bảo lục niên (năm 747) ông đi thi nhưng không đậu, phải sống vất vưởng ở Trường An gần mười năm. Đến năm 755 ông ra làm Hữu Vệ Xuất Phủ Trụ Tào Tham Quân (một thuộc quan của Thái Tử). Cùng năm xẩy ra cuộc phẩn loạn của An Lộc Sơn. Năm sau trên đường đến Linh Vơ, ông bị quân phản loan bắt cầm tù. Năm 757, ông thoát thân đến Phụng Tường, dược vua Đường Túc Tông dùng là Tả Thập Khiển. It lâu sau, v́ dâng sớ để cứu tể thần Pḥng Quản, ông bị biếm xuống làm Ty Quân Tham Quân ở Hoa Châu. Sau ông bỏ quan, vào đất Thục, dựng thảo đường ở Thành Đô để định cư. Hai năm sau, ông lại đến Tứ Xuyên làm mạc hữu cho Tiết Độ Sứ Nghiêm Vơ, rồi được tiến làm Kiểm Hiệu Công Bộ Viên Ngoại Lang, v́ thế người đời c̣n gọi ông là Đỗ Công Bộ. Sau khi Nghiêm Vơ mất, Đỗ Phủ dời đến Quỳ Châu, sống ở đó ba năm. Năm Đại Lịch tam niên đời Đại Tông, tức năm 768, cả nhà đến Hồ Nam, vừa bệnh lại thêm nghèo, Đỗ Phủ chết ở trong một chiếc thuyền, trên sông Tương Giang ở Mạt Dương.

Xuất thân hàn vi, lại sống trong một hoàn cảnh xă hội hắc ám, loạn lạc của cuối đời Đường đang đến hồi suy bại, phiêu bạc rày đây mai đó, Đỗ Phủ đă cảm thấy nỗi đau khổ của người dân, viết ra những bài thơ phản ánh một cách trung thực cái thời đại của ḿnh.

Những bài thơ của ông rất hùng hồn, cuồn cuộn, nổi danh cùng Lư Bạch, nên người đương thời xưng là "Lư Đỗ". Ông được tôn là Thi Sử và được coi là nhà thơ lớn của Trung Quốc về chủ nghĩa hiện thực.

Ông để lại các bộ "Đỗ Thiếu Lăng Tập" và "Đỗ Công Bộ Tập ".


Cảm tưởng về thơ văn của anh Phạm Xuân Hy xin gởi về  Japan_ob@yahoo.com