NGÂN CHÂM

           

 

Nguyên tác      :  Huỳnh Song Dị Thảo

Tác giả             :  Trường Bạch Hạo Ca Tử

Bản dịch của    :  Phạm Xuân Hy

                                                                                

Một ngọn đèn xanh lửa đóm,  hắt hiu tranh sáng với loài ma, 

Bao phen dặm cát bụi hồng,  tất cả khêu cười cho lũ quỷ

Liễu Tuyền Cư    BỒ TÙNG LINH

 

Năm Thiên Khải đời nhà Minh, Tôn Đại Liêm người Đồng Thành, tỉnh An Huy, sau khi đỗ hiếu liêm,  sửa soạn lên kinh để dự thi tiến sĩ, th́ lâm bệnh, đi không được.Đến khi phát bảng, thấy người này đỗ tiến sĩ, người kia đỗ tiến sĩ, vốn là những kẻ mà Sinh coi thường, bụng đâm ra phẫn hận, bệnh v́ thế càng thêm nặng thêm, khiến cho mẹ chàng lấy làm lo lắng.

Thầy lang thấy thế, mới bảo :

-Bệnh cũ của công tử đă hết rồi, hiện nay là do uất ức mà sinh ra, chỉ cần công tử đi ra ngoài du lăm danh thắng cổ tích, th́ uất ức tan đi, không cần thuốc thang chi cả và bệnh sẽ khỏi .

Sinh cho lời thầy lang là đúng, bàn với mẹ.Mẹ chàng cũng cho là phải.Bèn thuê cho chàng một chiếc thuyền nhỏ, sắm sửa hành trang kỹ lưỡng, chuẩn bị để Sinh đi du ngoạn những thắng cảnh ở vùng Đại Giang Tam Giáp.

Sinh từ giă mẹ lên đường, mang theo một đứa đầy tớ và một đứa tiểu đồng để gánh dụng cụ và sách vở.

Lúc sửa soạn lên thuyền, có một ông già đợi sẵn ở đấy, đến nài nỉ xin Sinh cho đi theo để phụ chèo, v́ không chịu nổi đi bộ nữa..Chàng thấy ông ta tuy tuổi khoảng lục tuần, nhưng người trông hồng hào quắc thước, bụng có ư thương hại, nên gật đầu nhận lời.

Ông già bước vào trong thuyền, vái chào Sinh, xưng là họ Hồ, hiệu là Duyệt Am, người Trực Lệ Hà Bắc, tính đến Kim Lăng để làm ăn.

Sinh hỏi ông lăo làm nghề ǵ, th́ ông ta chỉ cười, không trả lời trực tiếp, mà từ tốn đáp :

-Nghề của lăo, bậc nho gia không thích nghe đâu, xin công tử miễn cho !

Sinh cho là nghề chơi bời bí mật trong chốn pḥng the, nên không hỏi tiếp ;

Thuyền nhổ neo.Một lèo thuận buồm xuôi gió.

Buổi trưa ngày hôm sau, Sinh mệt nằm nghỉ ở khoang sau, chợt nghe có tiếng cười đùa hoan lạc từ song cửa khoang trước vọng lại.Chàng lấy làm lạ, không biết thằng ở và đứa thư đồng v́ sao lại ôm bụng mà cười rũ ra như vậy.Chàng lặng lẽ, bước xuống giường, lén đến xem.Chỉ thấy trong khoang thuyền đằng trước, ông lăo họ Hồ đang ngồi xổm trên một cái ghế thấp, ở trần từ vai đến bụng, lấy bút vẽ một h́nh người bé tí tẹo lên người.

H́nh người vẽ vừa xong, lập tức đứng thẳng dậy, khe khẽ phát xuất âm thanh, líu líu lo lo như tiếng chim con ca hót nhẩy múa.Thằng ở và đứa thư đồng của Sinh th́ khoái trá, ôm tai, ôm cổ, cười ngặt nghẽo.

Sinh biết ông lăo thuộc hạng dị nhân, không phải người thường, bèn âm thầm trở về giường nằm, không dám hỏi han phiền nhiễu ǵ.

Sáng hôm sau, chàng chuẩn rượu thịt, rau dưa, rất là thịnh soạn, để mời ông lăo.Trong tiệc rượu, chàng tính cầu xin ông lăo đem pháp thuật truyền cho ḿnh.Ông lăo đoán được ư định của Sinh, nói :

-Công tử trong tương lai sẽ lên như diều, không nên học cái thuật giang hồ « cầu cơm » này làm ǵ.C̣n cái ơn công tử cho phụ chèo, lăo không thể không báo được.Năm ngày nữa sẽ cùng công tử chia tay nhau, lăo nhất định sẽ có cái để tặng công tử.

Do đấy, sinh không hỏi thêm ǵ nữa, cùng ông lăo uống cho túy lúy, rồi mới về khoang thuyền của ḿnh.

Chừng đến ngày hẹn, thuyền sắp đến Nam Kinh, ông lăo thừa lúc đêm tối, t́m đến gập Sinh, nói :

-Sang mai th́ lăo từ biệt công tử.Cái điều hứa hôm trước, lăo không nuốt lời được, nay xin đem hậu lễ kính tặng công tử.

Sinh cảm tạ, và hỏi vật đó ở đâu.

 Đáp :

-Ở trong bụng lăo đây !

Sinh không nín được cười, nói :

-Cụ tính đùa cháu đấy à?Moi gan móc ruột, chỉ là lời nói thí dụ, chứ lẽ nào ai có thể moi ruột gan của ḿnh mà tặng cho kẻ khác được.

Ông lăo chỉ mủm mỉm cười, không biện giải ǵ, cởi bỏ cái áo khoác ngoài ra, để lộ cái bụng trần, bảo với Sinh :

-Công tử hăy thử gọi một tiếng xem, thể nào trong bụng cũng có người đáp lại !

Sinh càng cười rũ ra, kiên quyết không chịu gọi.

Ông lăo bèn vỗ vào bụng ḿnh, hô lớn :

-Ngân Châm đâu con !Mau ra tiếp khách, việc chi mà phải khép nép thẹn thùa như gái nhà quê vậy ?

Sinh nghe thế lại càng cười ngặt nghẽo, cong cả người xuống.

Bỗng có tiếng con gái nũng nịu, từ trong bụng ông lăo trả lời :

-Con không thích người lạ, sao ép con quá vậy.

Âm thanh vừa trong trẻo vừa nhỏ nhẹ như tiếng sáo, tiếng tiêu, uyển chuyển mà cao vút, ngọt ngào tưởng chừng như mật rót vào tai.

Sinh đâm hoảng sợ.Nín bặt không dám cười nữa.Mà chờ đợi.

Ông lăo lại vỗ b́nh bịch vào bụng, thôi thúc :

-Ta đă hứa gả con cho Tôn công tử rồi, đâu phải kẻ lạ ngoài đường.Bé đừng e thẹn nữa !

Sinh không thấy có tiếng trả lời.

Ông lăo lại dục.Th́ có tiếng đáp :

-Bố lè nhè như thế, chứng tỏ bố hồ đồ rồi.Thôi bố cứ mở hé cửa, con xin ra ngay.

Lúc đó Sinh càng sợ, hai mắt mở trừng trừng như con gà gỗ.

Ông lăo lấy tay đập thật mạnh vào bụng, làm bụng rách ra một lỗ nhỏ, rộng khoảng gang tay, mà chẳng chảy một giọt máu nào.Sinh càng kinh hăi, nhắm nghiền mắt lại.

Đột nhiên, Sinh ngửi thấy có mùi hương thơm kỳ lạ, ngọt ngào, táp vào mũi.Bên tai sột soạt như tiếng người xé lụa.Chàng hé mắt ra nh́n thử.Té ra là một người con gái, quần trắng, áo hồng, dung nhan diễm lệ, mái tóc ḷa x̣a, đang tức tối giận dỗi đứng trước ánh đèn.C̣n ông lăo đi nhờ thuyền biến đâu mất, không thấy tung tích ǵ.

Sinh sợ quá, cho người con gái là yêu quái.Nhưng nh́n kỹ lại, thấy dáng dấp xinh đẹp khả ái, ḷng hơi xiêu xiêu dao động, bèn lấy can đảm, hỏi :

-Này, nhà ngươi là loại yêu quái nào vậy ?Cả gan dám đến dụ mỗ.Mỗ đây là Tống Quảng B́nh, không để bị lụy v́ sắc đẹp đâu nhé.Có biến ngay đi tức khắc, bằng không mỗ cho một dao chết tươi.

Người con gái thấy Sinh bên ngoài th́ oai bên trong th́ nhát, không nín được cười, bèn vén áo khép nép, thi lễ :

- Thiếp xin nói thật, thiếp là chồn tiên.Cha thiếp vâng lệnh Ngọc Hoàng sai đến Trường Lăng (4) giữ mộ cho Cao Đế, nhưng sợ thiếp không có nơi cậy nhờ, nên cho đi theo.Mấy hôm trước đây, lúc đi qua sông, chẳng may gặp thủy thần.Ông ta thấy thiếp là người nhan sắc, muốn ép làm vợ.Cha thiếp coi thủy thần chỉ là loại cóc nhái, không chịu gả, bèn dấu thiếp vào trong bụng.Nhờ phúc ấm của công tử cho quá giang.Nay sắp đến nơi, cha thiếp mang ơn công tử, nên gả thiếp cho công tử, để thị phụng chiếu chăn, đền đáp ơn dầy, Thiếp không dám tác quái.Xin công tử đừng nghi ngại chi cả.

Sinh thấy nàng không có vẻ ǵ là ác ư, ḷng cũng nao nao, nói :

-Ta bệnh đă lâu ngày không khỏi, ḷng dạ nào mà lấy vợ.

Người con gái cười tủm tỉm, bảo Sinh :

-Chuyện đó dễ!Xin chàng cứ gối cao ngủ yên, trước hết thiếp sẽ đuổi hai con ma ấy đi, để chàng thấy thiếp không phải loại yêu quái hại người.

Sinh rất lấy làm mừng, cật hỏi :

-Khanh c̣n biết cả thuốc nữa à.Nếu có thể chữa dùm ta căn bệnh nặng này, th́ ta tiếc ǵ mà không v́ t́nh mà chết.

Người con gái không đáp, nhưng Sinh vừa đặt lưng xuống giường, th́ nàng th́nh ĺnh biến mất, không thấy đâu nữa.Duy cảm thấy một luồng nhiệt khí thổi qua lỗ rốn, đi vào trong bụng.Rồi từ từ đi lên lá lách vào gan.Sau chạy khắp tạng phủ.Một lát sau, mồ hôi trong người Sinh xuất ra như chưng nước.Tinh thần, trí óc, nhất thời sảng khoái, nhờ thế mà bệnh tiêu tan, như trút được gánh nặng.Chàng ngủ thiếp đi không c̣n biết ǵ, ngay cả người con gái cũng không biết biến đi đâu mất.

Chừng tỉnh dậy, thuyền đă đậu vào bến.Đứa thư đồng vào báo là ông lăo đă đi rồi, có để một lá thư lại.Sinh mở ra đọc, lời thư dặn Sinh nên đối đăi tử tế với người con gái.

Nhưng Sinh biết nàng ở đâu mà t́m.Đành lên bờ, đi xe vào thành, đến tá túc trong gia đ́nh một người bạn.

Bằng hữu từ lâu không gặp, cùng nhau truyện tṛ yến ẩm rất lâu, mà Sinh chẳng hề mệt mỏi.Các bạn bè đều mừng cho chàng.Riêng chàng cũng rất lấy làm khoan khoái trong bụng.Măi cho đến thật khuya, Sinh mới về buồng nằm nghỉ.Ḷng tưởng nhớ người con gái, hy vọng được gặp lại nàng, nên bảo đứa thư đồng và thằng ở sang ngủ buồng khác.Nhưng chờ măi chẳn thấy tung tích người con gái đâu, trong ḷng buồn buồn lên giường, c̣n đang trằn trọc, chợt bên tai có tiếng người nói khe khẽ :

-Thiếp đến bầu bạn với chàng nhé!Ḷng chàng thật sắt đá, chẳng nhớ ǵ đến nhau sao ?

Sinh cảm thấy mùi thơm son phấn từ miệng người con gái thở ra gần kề, chàng vừa đưa tay sờ, th́ nàng đă chui tọt vào trong chăn.

Sinh cầm ḷng không được, bèn cùng âu yếm.

Sáng dạy, chàng tính mưu dấu nàng vào một chỗ, nhưng nàng cương quyết không chịu, quả nhiên không thấy đâu nữa.Tới lúc lên giường đi ngủ, mới lại thấy nàng trở lại.

Thời gian vùn vụt như tên bay, sau khi đă đi xem khắp những danh lam thắng cảnh vùng Nam Kinh, Sinh chợt nhớ đến quê nhà, nhân dịp vua mới lên ngôi, cho mở ân khoa, chàng bèn trở về Đông Thành.

Người con gái đưa tiễn Sinh đến bờ sông, sùi sụt gạt lệ bảo chàng :

-Cha thiếp ở đây, thiếp phải ở lại, không thể đi theo chàng được !

Sinh quyến luyến không rời, cố ép nàng cùng đi.Nhưng người con gái đă biến mất.

Năm sau, vào kinh thi xong, Sinh trở lại Nam Kinh t́m lại nàng, nhưng không gặp lại nhau nữa.

___________________________________________________________________________

Vài nét về tác giả:

Trường Bạch Hạo Ca Tử ( ) :

Cũng c̣n gọi là Hạo Ca Tử, là một tác giả gốc Măn Châu đời Càn Long, tên họ thật và đời sống bất tường.Nhưng theo “Bát Kỳ Nghệ Văn Biên Mục” ghi chú th́ Huỳnh Song Dị Thảo do Khánh Lan người Măn Châu soạn.

Khánh Lan tên chữ là Tự Thôn, là một văn sĩ nghèo, từng giao thiệp với văn học gia nổi tiếng đương thời là Viên Mai.Tuy sống âm thầm không được người đời biết đến, nhưng phụ thân ông là Doăn Kế Thiện là một đại thần nổi tiếng của Thanh triều, lịch nhậm các chức Tuần Phủ, Tổng Đốc, sau đến Văn Hoa Điện Đại Học Sĩ kiêm Quân Cơ Đại Thần.

Tác phẩm “Huỳnh Song Dị Thảo” gồm có một trăm ba mươi tám truyện ngắn, viết theo lối văn ngôn.

Mặc dầu mô phỏng theo phong cách của Bồ Tùng Linh trong Liêu Trai Chí Dị, nhưng Huỳnh Song Dị Thảo không phải là không có nhưng tác phẩm ưu tú, tư tưởng và nghệ thuật tương đối cao.Cốt truyện thường có khuynh hướng đề cao nam nữ tự do luyến ái, và đả kích cái lễ giáo của phong kiến hủ bại, nên từ lâu đă được độc giả hoan nghênh ưa thích.

Một số truyện trong Huỳnh Song Dị Thảo đă được chúng tôi phiên dịch và in trong Hậu Liêu Trai và Thiếp Bạc Mệnh trước đây.

 

Vài hàng chú thích :

 

Thiên Khải ( 天 啟 ) :

Thiên Khải là niên hiệu của vua Hy Tông (tên là Chu Do Hiệu)nhà Minh, làm vua từ năm 1621 đến năm 1627.

Trường Giang Tam Giáp ( ) :

 Giáp là chỗ hai vách núi kẹp giữa nước, thường dùng để chỉ địa danh, như Tam Môn Giáp ở Hà Nam, Thanh Đồng Giáp ở Ninh Hạ.

Trường Giang Tam Giáp bao gồm Địch Đường Giáp, Vu Giáp, Tây Lăng Giáp nằm trên thượng du sông Trường Giang khoảng từ huyện Phụng Tiết tỉnh Tứ Xuyên đến huyện Nghi Xương tỉnh Hồ Bắc, dài 190 kilomet.Trừơng Giang Tam Giáp nổi tiếng có nhiều danh thắng cổ tích, hai bên vách núi thẳng đứng nguy nga hung hiểm, được nhiều văn nhân thi ś mô tả ngâm vịnh.

 

Kim Lăng ( 金 陵 ) :

 Nhà thơ Lư Bạch có hai bài thơ nổi tiếng nhắc đến Kim Lăng, ở hai hoàn cảnh khác nhau là Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài, và Kim Lăng Tửu Tứ Lưu Biệt.

Kim Lăng nay là thành phố Nam Kinh tỉnh Giang Tô.

Theo tác giả Cô Vong Ngôn th́ Kim Lăng bị đổi nhiều tên gọi khác nhau, theo từng triều đại .Thời Xuân Thu, Kim Lăng thuộc nước Ngô, thời Chiến Quốc thuộc nước Việt, sau thuộc nước Sở.V́ vua Sở Uy Vương dựng lăng chôn vàng để trấn yểm đất đó, nên mới gọi là Kim Lăng.

Đến đời Tần Thủy Hoàng th́ đổi là Mạt Lăng.Thời Tam Quốc, năm 212 CN Tôn Quyền xây cất Thạch Đầu Thành và đến năm 229 Quyền đóng đô ở đó mới đổi Kim Lăng là Kiến Nghiệp.Đời Tây Tấn, v́ tị húy Tư Mă Nghiệp đổi Kiến Nghiệp là Kiến Khang.Các đời Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, và Nam Đường đều đóng đô ở đó.Đời Tùy là Tưởng Châu.Đời Tống là Kiến Khang Phủ. Đời Nguyên là Tập Khánh .

Đến Minh Thái Tổ lại đổi là Ứng Thiên Phủ.

Năm 1421 CN, Minh Thành Tổ rời đô đến Bắc Kinh, Ứng Thiên Phủ mới gọi là Nam Kinh

Năm 1853 CN, Nam Kinh trở thành quốc đô của Hồng Tú Toàn và gọi là Thiên Kinh.

Năm 1927 Trung Hoa Dân Quốc thành lập, đến năm 1930 lại gọi là Nâm Kinh Thị

 

Trường Lăng ( ) :

Tên ngôi mộ của Hán Cao Đế Lưu Bang.Lưu Bang chết năm 195 trước Công nguyên, chung niên 62 tuổi, miếu hiệu Cao Tổ, thụy hiệu là Cao Hoàng Đế, chôn ở Trường Lăng, nay là phía đông thị trấn Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây.

 

Ngọc Hoàng (玉 皇):

Theo thần thoại truyền thuyết, Ngọc Hoàng là vị vua ở trên trời, cũng c̣n gọi là Ngọc Đế, hay Ngọc Hoàng Đại Đế.Tương truyền th́ Ngọc Hoàng có pháp lực vô biên, coi quản mọi sự cát hung, họa, phúc ở tam giới 三 界 (thượng giới, trung giới, và hạ giới), thập phương thập 十 方 (đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, thượng, hạ), lục đạo 六 道(thiên, nhân, quỷ, địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ), tứ sinh 四 生 (thai sinh, noăn sinh, thấp sinh, hóa sinh).

Trong nhiều tác phẩm văn học của Trung Quốc, như Tây Du Kư của Ngô Thừa Ân, đă mô tả Ngọc Hoàng là vị thần linh chủ tể của cả trên trời, dưới đất, và nhân gian.

 

Công tử (公 子):

1-Cổ xưa, ngoài người con đích của chư hầu vương, th́ những người con khác được gọi là công tử, chẳng hạn như trong sách "Sử Kư-Ngụy Công Tử Liệt Truyện" th́ Ngụy Công Tử Vô Kỵ là con út của vua Ngụy Chiêu Vương, và là em của vua Ngụy An Hy Vương, người anh cùng cha khác mẹ với Ngụy Công Tử Vô Kỵ.

Tề Hoàn Công khi chưa lên ngôi được gọi là Công Tử Tiểu Bạch.Tấn Văn Công khi chưa tức vị cũng gọi là Công Tử Trung Nhĩ.

Về sau, người ta thường gọi con các quan lại là công tử, rồi dần dần tôn xưng con người khác cũng gọi là công tử.

2-Trong cách xưng hô, gọi người đối thoại với ḿnh là công tử là để tỏ ư kính trọng người đó.

 

Cao Đế (高 帝) :

Tức Hán Cao Tổ Lưu Bang, chết chôn ở Trường Lăng, niên hiệu là Cao Đế.Niên hiệu nay bắt đầu từ năm 206 trước CN, đến năm 195 trước CN, tổng cộng Lưu Bang làm vua được 12 năm.


Cảm tưởng về thơ văn của anh Phạm Xuân Hy xin gởi về  Japan_ob@yahoo.com