THÔI 

     

 

Tuyển từ       :  Thái B́nh Quảng Kư
Tác giả          :  Bùi H́nh
Bản dịch của :  Phạm xuân Hy

 

                                                                  Một ngọn đèn xanh lửa đóm,  hắt hiu tranh sáng với loài  ma,                                                                  Bao phen dặm cát bụi hồng,  tất cả khêu cười cho lũ quỷ

                                                                                         Liễu Tuyền Cư Sĩ  BỒ TÙNG LINH

 

Niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường, có người họ Thôi tên Vĩ, vốn là con quan cố Giám Sát Ngự Sử Thôi Hướng. Khi c̣n sinh tiền, Thôi Hướng từng nổi tiếng là người giỏi làm thơ, sau chết trong lúc ṭng sự ở Nam Hải.

Thôi Vĩ cư trú ở Nam Hải, tính t́nh rộng răi khoáng đạt, truộng nghĩa khinh tài, không chăm lo ǵ đến gia tài sản nghiệp. Trong ṿng mấy năm th́ khánh tận, tiền bạc hết sạch sàng sanh, đành đến cửa chùa ngủ đậu.

Một hôm vào tết Trung nguyên ngày này dân chúng Phiên Ngung thường có tục đem thức ăn ngon đến chùa cúng lễ, và tập trung hàng trăm thứ tṛ chơi múa diễn ở Khai Nguyên Tự.

Vĩ cũng đến đó để xem.

Chàng thấy có một bà lăo ăn mày, nhân không đề pḥng bị té, làm đổ vỡ một b́nh rượu của một quán bán rượu, bị chủ quán vung chân múa tay đánh đập. Mà b́nh rượu, thật ra, cũng chỉ đáng giá một mân tiền mà thôi. Vĩ thấy vậy, ḷng thương hại, bèn cởi chiếc áo đang mặc trên người ra để bồi thường thay cho bà lăo.

Bà lăo bỏ đi thẳng, chẳng thèm cám ơn một lời.

Sau đó một hôm, bà lăo t́m đến bảo với Vĩ rằng :

-Mụ xin đa tạ công tử đă cứu mụ thoát khỏi tai nạn. Mụ có thuật châm cứu chữa khỏi bệnh bướu trên người, nay có mấy sợi cỏ ngải vùng Việt Tỉnh Cương tặng công tử, nếu như mà gặp ngừời mắc bệnh đó, chẳng những có thể trị cho người ta, lại c̣n được vợ đẹp nữa.

Thôi cười, rồi cầm lấy những sợi ngải, th́ bà lăo đă th́nh ĺnh biến mất.

Ít lâu sau Vĩ đến vùng Hải Quang Tự du ngoạn, gặp một vị sư già, có cái bướu mọc ở tai, chàng lấy ngải ra đốt để chữa cho nhà sư, quả nhiên hiệu nghiệm đúng như lời bà lào ăn mày nói, cái bướu liền rụng xuống đất. Vị sư già hết ḷng cẩm kích, bảo với Vĩ :

-Bần đạo chẳng có ǵ quư để đền ơn công tử, chỉ xin niệm kinh cầu chúc cho công tử hạnh phúc trường thọ. Tuy thế, ở dưới chân núi này, có cụ già họ Nhâm, gia tư giầu có cự vạn, cũng mắc chứng bệnh như bần đạo. Như nếu công chữa khỏi, chắc chắn sẽ được đền ơn lớn. Để lăo viết thư giới thiệu nhá.

Vĩ gật đầu đồng ư.

Khi lăo Nhâm được tin ấy, mừng nhẩy cẫng lên, lấy lễ đón tiếp Vĩ thật là trịnh trọng. Vĩ bèn đem ngải ra đốt, chữa cho lăo Nhậm khỏi bệnh ngay.

Lăo Nhậm bảo với Vĩ :

-Tạ ơn công tử đă cứu lăo khỏi khổ nạn này, lăo chẳng có ǵ nhiều để hậu tạ công tử, xin biếu công tử mười vạn sâu tiền, mong công tử thư thả ở lại chơi tệ xá ít hôm, đừng vội vă đi ngay.

V́ thế mà Vĩ ở lại nhà lăo Nhậm.

Chàng vốn sành sỏi đàn sáo. Nhân nghe có tiếng đàn cầm trổi lên ở nhà trên của chủ nhân, bèn hỏi với đứa gia đồng xem ai là người gẩy, th́ nó đáp :

-Đó là con gái yêu của chủ nhân đấy.

Chàng bèn mượn đàn để gẩy. Chính lúc đó, người con gái của chủ nhân âm thầm đi qua, nghe tiếng đàn của Vĩ, liền sinh cảm t́nh, đem bụng yêu dấu .

Đương thời, trong nhà lăo Nhậm có thờ một vị thần gọi là Thần Một Chân (Độc Cước Thần), cứ mỗi ba năm phải giết một người để cúng, mà tế kỳ lại sắp đến, lăo Nhậm vẫn chưa kiếm được người để giết, bỗng thay ḷng đổi dạ, gọi người con trai đến thương lượng, nói :

-Nhà ta nay chẳng có khách lạ nào đến, c̣n thân thuộc không ai có thể giết để tế thần được. Ta nghe nói đại ân c̣n có thể không báo, huống hồ chỉ chữa cái tật nhỏ !

Bèn ra lệnh sửa soạn đầy đủ thức ăn rau trái để tế thần, chờ nửa đêm sẽ đem Vĩ ra giết. Sau đó âm thầm khóa bên ngoài cửa pḥng Vĩ lại, mà Vĩ chẳng hề hay biết ǵ.

Người con gái của lăo Nhâm lén nghe biết chuyện, kín đáo đem một con dao để vào ngách cửa sổ, và bảo với Vĩ :

-Nhà thiếp thờ quỷ, đêm nay tất giết chàng để cúng quỷ, chàng hăy dùng con dao này, phá cửa mà trốn đi, bằng không, lát nữa th́ chết. Nhưng nhớ mang dao theo, đừng để lại mà lụy đến thiếp.

Vĩ nghe xong, sợ hăi, toàn thân mồ hôi tháo ra như tắm, vớ lấy đao, chém gẫy trấn song cửa sổ, cầm theo ít cỏ ngải, rồi nhẩy ra ngoài, tháo then cửa lớn, lập tức chuồn thẳng.

Lăo Nhâm bất ngờ biết được, bèn đem theo hơn mười đứa gia đồng, kẻ cầm đuốc, người cầm đao, đuổi theo Vĩ sáu bẩy dặm, cơ hồ suưt bắt được chàng.

Vĩ v́ lạc đường, rơi xuống một cái giếng khô, nên bọn người đuổi theo bị mất tung tích, phải quay trở về nhà.

Khi Vĩ bị rơi xuống giếng, cũng nhờ những lá khô, lá mục, lâu ngày thành một cái đệm dầy, nên Vĩ không bị thương tích ǵ.

Chừng khi trời sáng, Vĩ nh́n, té ra là một cái huyệt lớn, sâu hơn một trăm trượng, không thể nào ra nổi . Tứ phía đều là lối trống không ngoằn ngoèo khúc khuỷu, có thể chứa cả ngàn người. Vĩ thấy ở giữa động có một con trăn trắng to lớn, nằm cuộn khúc, dài cũng vài trượng. Trước đầu trăn có một cái cối đá bằng đá, trên trần đá có một vật lỏng như mật cao nhỏ từng giọt xuống cối. Vĩ thấy trăn bèn lấy nước đó mà uống, ḷng cảm thấy thấy lạ lùng, kỳ quái, bèn khấu đầu khấn vái :

-Tôi chẳng may rơi lạc xuống đây, xin Long Vương thương t́nh đừng làm hại tôi !

Khấn xong, lấy chỗ mật cao c̣n lại trong cối đá mà uống, nhất thời trong bụng không cảm thấy đói khát nữa. Khi nh́n kỹ thêm, Vĩ thấy ở môi của trăn cũng có một cục biếu, nghĩ đến cái ơn trăn đă thương ḿnh, ư tính đem ngải cứu ra trị cho trăn, nhưng chẳng lấy lửa vào đâu được. Một lúc lâu sau, chợt có tia lửa từ xa bay vào trong động, Vĩ bèn đốt ngải, rồi giải thích với trăn, sau đấy mới châm vào cái bướu . Bướu lập tức rơi xuống đất.

Từ truớc, trăn bị bướu làm trở ngại ăn uống, nay nhất thời mất đi, cảm thấy thuận lợi, bèn nhả ra một viên ngọc lớn, đường kính chừng một thốn để đền ơn Vĩ.

Vĩ không nhận, bảo với trăn rằng :

-Ngài là Long Vương có tài hưng vân bố vũ, chuyển hóa âm dương, xuất một tùy tâm, tất có cách cứu kẻ trầm luân, nếu đưa được tôi ra khỏi chốn này, trở về nhân thế, th́ ơn ấy tôi xin một đời khắc ghi tại tâm can. Tôi chỉ mong được về ngay, c̣n châu báu ngọc ngà nào có cần chi.

Nghe Vĩ nói thế, trăn liền nuốt lại viên ngọc vào bụng, rồi uyển chuyển ḅ đi, như có ư định đến một chỗ nào đó.

Vĩ vái thêm lần nữa, rồi trèo lên lưng trăn. Nhưng trăn chỉ ḅ ở trong động, như thế có đến hơn mười dặm, chứ không chịu ra khỏi động khẩu. Trong động hắc ám như sơn, may nhờ có ánh sáng từ vẩy trăn tỏa ra như đuốc, chiếu lên hai bên vách, Vĩ thấy có những h́nh vẽ đàn ông, người nào cũng đội mũ đeo đai cả, phục sức như các vị quan ngày xưa. Sau, đi đến một cái cửa bằng đá, trên cửa có khoen thú vật bằng đồng, miệng ngậm môn hoàn, thông suốt bên kia sáng trưng.

Trăn đi đến đấy, th́ cúi đầu, không muốn tiến thêm nữa, mà ngừng lại để cho Vĩ xuống. Vĩ tưởng đă về đến cơi trần, bèn bước vào nhà. Chỉ thấy đó là động phủ, trống không, rộng răi, diện tích ước chừng hơn một trăm bộ., ngăn bởi bốn vách trạm trổ, điêu khắc. Giũa động buông phủ màn gấm thêu mầu vàng, mầu tía. Trên màn lại gắn trân châu phỉ thúy, làm Vĩ hoa cả mắt. Trước màn, là một chiếc lư đồng, có các loại thú như giao long, loan phụng, quy xà, yến tước, làm trang trí, đang há mỏ trương mồm nhả khói hương thơm nồng nặc. Bên cạnh có một cái ao nhỏ, lát băng hoàng kim và bạch ngọc. Trong ao đổ đầy thủy ngân để thả những con vịt trời, hải âu, bằng ngọc quư bơi lội. Sát bốn vách tường, kê những chiếc bàn khảm tê giác, sừng voi. Trên bàn bầy các loại nhạc khí như cầm, sắt, sênh, hoàng, đào, chúc. . . Nhất thời, Vĩ không sao nhớ nổi hết là bao nhiêu thứ. Chừng để ư nh́n kỹ, thấy những nhạc khí đó c̣n in dấu tay của người vừa mới chơi xong, ḷng đâm ra hoang mang mơ hồ, không biết đây là động phủ nào. Lúc lâu sau, Vĩ lấy đàn gẩy thử, th́ những cửa sổ trên bốn vách tường đều bật mở, có một con hầu áo xanh đi ra cười, nói :

-Ngọc Quỳnh Tử đă đưa Thôi lang đến !

Rồi lại quay người trở vào ngay.

Khoảnh khắc, có bốn nữ lang, đều búi tóc theo lối cổ, quần áo sặc sỡ thướt tha, đi ra bảo Vĩ :

-Chàng họ Thôi này ở đâu mà tự tiện vào trong mộ huyệt của hoàng đế vậy !

Vĩ vội vă buông đàn xuống, chắp tay hành lễ vái chào. Các nàng cũng vái chào đáp lễ.

Vĩ hỏi :

-Đă là mộ của hoàng đế, vậy xin quư nương cho biết hoàng đế nay ở đâu ?

Đáp :

-Hoàng đế đi dự yến với vua Chúc Dong, nay tạm vắng nhà.

Rồi các nàng mời Vĩ vào ghế ngồi gẩy đàn tiếp. Chàng gẩy một khúc nhạc của người Hồ. Các nàng hỏi :

-Đó là khúc nhạc ǵ vậy ?

Vĩ thưa :

-Đó là khúc Hồ Già.

Lại hỏi :

-Hồ Già là khúc ǵ, chị em thiếp không hiểu ?

Vĩ đáp :

-Thời Hán có nàng Sái Văn Cơ, con gái quan Trung Lang Sái Ung, bị người Hung Nô bắt, phải luân lạc nơi đất Hồ, khi trở về nước, cảm nhớ đến những việc cũ ở đấy, mới đem phổ thành một khúc nhạc để gẩy, nhạc nghe ai oán nức nở như tiếng kèn của Hung Nô vậy.

Các nàng đều tỏ ra vui vẻ, nói :

-Thật đúng là một tân khúc !

Rồi sai thị nữ đem rượu nếp ra rót mời Vĩ. Chàng khấu đầu tạ ơn, đem cái ư tha thiết muốn trở về, cầu xin với các nàng giúp đỡ.

Một nữ lang bảo :

-Chàng đă đến nơi đây, âu cũng là cái duyên tiền thế, hà tất phải vội vă, xin hăy tạm nán lại, lát nữa sẽ có sứ giả nước Việt đưa về .

Một cô khác nói :

-Hoàng thượng đă hứa đem Điền phu nhân gả cho chàng, th́ cũng nên gặp gỡ nhau mới phải chứ !

Vĩ chẳng hiểu đầu đuôi truyện ǵ, nên im lặng không dám nhận lời.

Các nàng bèn bảo thị nữ vào mời Điền phu nhân ra, nhưng phu nhân lấy cớ chưa có chiếu chỉ của nhà vua, nên không dám gặp Vĩ. Mời thêm lần nữa, cũng không ra .

Nữ lang bảo Vĩ rằng :

-Điền phu nhân là người nhu ḿ, đức hạnh, lại xinh đẹp, trên đời không ai sánh nổi, xin chàng hăy để tâm săn sóc, cũng là túc duyên cả. Phu nhân chính là con của Tề Vương đấy.

Vĩ hỏi :

-Tề Vương là ai vậy ?

Đáp :

-Tề Vương húy là Điền Hoành, vào thời kỳ đầu nhà Hán, từng làm vua nước Tề, khi Hàn Tín diệt Tề, mới bỏ trốn ra sống ở hải đảo.

Lát sau, có bóng mặt trời chiếu vào chỗ Vĩ ngồi, chàng ngẩng đầu lên nh́n, qua một lỗ hổng, chàng thấy thấp thoáng ẩn hiện thế giới nhân gian.

Các nàng đều nói :

-Sứ giả Dương Thành sắp đến !

Sau đó, quả nhiên Vĩ thấy từ trên không có một con dê trắng từ từ đi xuống, tiến đến chỗ ngồi. Trên lưng dê có một người đàn ông, áo quần nghiêm trang, một tay cầm một cây bút lớn. Tay kia cầm thanh trúc xanh, trên có những chữ viết theo lối triện.

Sứ giả đặt thanh trúc xanh lên trên án thư. Các nàng sai t́ nữ đọc các hàng chữ trên thanh trúc như sau : « Thứ Sử Quảng Châu là Từ Thân đă qua đời, nay do An Nam Đô Hộ Triệu Xương thay thế »

Rồi rót rượu mời sứ giả và nói :

-Thôi lang muốn trở về Phiên Ngung, xin phiền sứ giả đưa chàng cùng về nhá.

Sứ giả mạnh dạn nhận lời ngay, rồi quay đầu sang bảo với Vỹ :

-Ngài sau này nhất định phải thay tôi đổi áo quần, tu bổ pḥng thất, để trả thù lao đấy nhá.

Vĩ chẳng hiểu sứ giả nói ǵ, chỉ gật đầu lia lịa cho xong.

Các nàng lại nói :

-Hoàng thượng có sai chị em thiếp đem quốc bảo Toại Dương Châu tặng cho Thôi lang, khi đưa về nước, sẽ có người Hồ bỏ mười vạn mân tiền ra mua .

Vĩ chắp tái vái tạ lần nữa, nhận lấy báu vật, rồi hỏi các nàng :

-Vĩ tôi chưa từng được yết kiến hoàng thượng, lại không phải chỗ thân tộc, sao lại đột ngột đem ngọc quư mà ban cho như vậy ?

Các nàng đáp :

-Tiên quân trước đây từng có thơ đề ở Việt Vương Đài, khiến cho quan Thứ Sử Từ Thân cảm động mới cho tu bổ lại Việt Vương Đài. Hoàng thượng cũng lấy làm cảm kích, nên cũng có thơ đề tiếp, cái ư đem ngọc báu tặng cho chàng nằm ở trong bài thơ đó, đâu cần chị em thiếp nói ra, lẽ nào chàng lại không thấy.

Vĩ hỏi :

-Không biết trong thơ hoàng thượng viết ǵ ?

Các nàng bèn sai thị nữ, đem thơ đề trên quản bút của sứ giả nước Việt cho Vĩ coi. Thơ rằng :

                  

                       Thiên tuế hoang đài huy lộ ngung

           

                       Nhất phiền Thái thú trùng tiêu đồ

                                 

                       Cảm quân phất thức ư hà cực

           

                        Báo nhĩ mỹ phụ dữ minh châu.

           

 

Vĩ lại hỏi :

-Hoàng đế nguyên danh tính là ǵ ?

Nữ lang đáp :

-Sau này th́ sẽ tự biết !

Rồi nói tiếp :

-Vào ngày tết Trung nguyên, chàng nên sửa soạn rượu ngon và đồ nhắm tốt trong một tĩnh thất ở Chùa Bồ Giản tỉnh Quảng Châu, chị em thiếp sẽ đưa Điền phu nhân tới.

Vĩ bái tạ cáo từ, tính trèo lên lưng dê của sứ giả, th́ nữ lang nói :

-Nghe nói chàng có loại ngải cứu của Bảo Cô, có thể cho chị em thiếp ít nhiều được chăng ?

Vĩ để ngải cứu lại tặng bốn nàng, nhưng không biết Bảo Cô là ai, bụng c̣n đang suy nghĩ, chớp mắt đă thấy ra khỏi động phủ, chân đạp trên một vùng đất bằng phẳng, ngẩng đầu nh́n sao trên trời, mới biết là đă canh năm. Một lát sau th́ nghe tiếng chuông chùa Bồ Giản vọng lại, bèn đi đến đó, được các tăng nhân trong chùa, đem cháo sớm cho ăn, rồi trở về Quảng Châu.

Nguyên ngày trước, ở Quảng Châu, Vĩ có thuê một gian pḥng làm chỗ cư trú, nay bèn trở về đấy để hỏi thăm tin tức, té ra chàng xa nhà đă ba năm rồi.

Chủ nhà hỏi Vĩ :

-Công tử đi đâu mà ba năm nay mới trở về vậy?

Vĩ không muốn nói sự thực, cứ đẩy cửa bước vào pḥng, chỉ thấy bàn ghế, giường tủ, vẫn y nguyên như cũ, nhưng bụi bặm phủ đầy, trong ḷng cảm thấy sót sa đau đớn. Chàng hỏi chủ nhà về t́nh huống của viên quan Thứ sử Quảng Châu Từ Thân, quả nhiên ông đă qua đời, và người đến thay là Triệu Xương.

Hôm sau, Vĩ t́m đến một thương điếm của người Ba Tư, lén bỏ viên ngọc báu đă được tặng ra bán. Một ông lăo người Hồ, chợt nh́n thấy viên ngọc ấy, lập tức ḅ xuống đất, hai tay chắp lên trán vái chàng, nói :

-Công tử nhất định từ mộ huyệt của Nam Việt Vương Triệu Đà trở về, bằng không, không thể có viên ngọc báu này được. Bởi v́ viên ngọc này đă được đem tuẫn táng chung với Triệu Vương rồi.

Vĩ bèn đem t́nh thực nói cho ông ta rơ, và chàng mới được biết hoàng đế chính là Triệu Đà, nhân v́ Triệu Đà từng xưng là Nam Việt Vơ Vương. Sau đấy, ông lăo người Hồ bỏ ra mười vạn mân để mua viên ngọc của chàng.

Vĩ hỏi ông lăo người Hồ :

-Cụ làm sao mà biết được lai lịch của viên ngọc này ?

Ông lăo người Hồ đáp :

-Viên ngọc Toại Dương Châu này là quốc bảo của nước Đại Thực chúng tôi, vào thời đầu nhà Hán, Triệu Đà từng phái người có bản lănh trèo núi vượt biển đến nước tôi ăn cắp mang về Phiên Ngung, cách nay cũng cả ngàn năm. Nước chúng tôi có người có tài coi xem xét thiên tượng, có báo trước là năm sau quốc bảo sẽ được trở về nước, bởi thế cho nên quốc vương nước tôi mới phái tôi đem thuyền lớn và tiền bạc đến Phiên Ngung để t́m mua về. Nay quả nhiên đúng như vậy.

Sau đấy, ông lăo người Hồ lấy nước ngọc dịch để rửa, phút chốc sáng chưng cả pḥng, rồi ông vội vă xuống thuyền trở về Đại Thực Quốc.

Vĩ có được món tiền lớn, bèn mua sắm đất đai nhà cửa, nhưng t́m kiếm Dương Thành sứ giả th́ tuyệt vô âm tín.

Một hôm chàng có việc đến miếu thành hoàng, bất chợt thấy những tượng thờ ở đó có một bức trông giống Dương Thành sứ giả, lại thấy trên cây bút của bức tượng có những chừ viết nho nhỏ, đó chính là bài thơ đă đọc ngày trước ở trong mộ. Nhân thế, Vĩ đem rượu thịt đến miếu cúng tế, và cho tô điểm lại bức tượng, cùng mở mang miếu rộng thêm. Và cũng nhờ vậy, Vĩ mới biết là Dương Thành tức Quảng Châu thành, v́ trong miếu có tượng năm con dê.

Sau đó, chàng hỏi thăm đến nhà cửa chỗ ở của ông già họ Nhâm, té ra đó là mộ của Nam Việt úy là Nhâm Ngao. Vĩ lại lên Việt Vương Đài để xem bài thơ do cha chàng đề. Thơ rằng :

                    Việt Tỉnh Cương đầu ṭng bá lăo

          越 井 岡 頭 松 柏 老

                    Việt Vương Đài thượng sinh thu thảo

          越 王 台 上 生 秋 草

                    Cổ mộ đa niên vô tử tôn

          古 墓 多 年 無 子 孫

                    Dă nhân đạp tiễn thành quan đạo

          野 人 踏 踐 成 官 道

 

Bên cạnh có bài thơ họa của Nam Việt Vương Triệu Đà, khiến Vĩ cảm thấy nguồn gốc sự t́nh có nhiều điều kỳ quái, bèn t́m người chủ tŕ miếu để hỏi, th́ người ấy nói :

-Trước đây quan Thứ Sử Từ Thân nhân lên thăm Việt Vương Đài, cảm động v́ bài thơ của Thôi Ngự Sự, mới cho tân trang tu bổ lại đài, nên bây giờ trông mới tráng lệ như vậy đấy!

Sau, đến gần ngày tết Trung Nguyên, Vĩ chuẩn bị một mâm rượu thịt rất là phong phú hậu hĩnh, đem đến chờ trong một tĩnh thất ở chùa Bồ Giản. Quả nhiên đến gần nửa đêm, có bốn người con gái d́u Điền phu nhân đến. Trông nàng dung mạo, rất là kiều diễm, nói năng từ tốn văn vẻ. Bốn nàng con gái cùng Vĩ uống rượu tṛ truyện, cười đùa, măi cho đến lúc gần sáng, mới cáo từ ra về. Vĩ cũng vái chào tạ ơn, rồi viết một lá thư cho Nam Việt Vương Triệu Đà, lời thư rất là cung kính, chỉ cốt bầy tỏ ḷng biết ơn mà thôi, sau đó, mới dắt Điền phu nhân vào trong pḥng.

Vĩ hỏi nàng :

-Khanh đă là con gái của Tề Vương, v́ sao lại lấy Nam Việt Vương ?

Nàng đáp :

-Thiếp v́ cảnh quốc phá gia vong, nên bị Nam Việt Vương bắt đem về làm cung nữ. Khi Nam Việt Vương mất, thiếp bị tuẫn táng chung. Nay không biết là thời đại nào, chỉ mơ màng nhớ rằng việc Tề Vương Điền Quảng luộc Lịch Tự Kỳ như mới vừa xẩy ra hôm qua. Nên mỗi khi nhớ lại chuyện cũ, không khỏi sót sa rơi lệ.

Lại hỏi :

-C̣n bốn người con gái ?

Đáp :

-Đều là những cung nữ bị tuẫn táng như thiếp. Trong đó có hai cô do vua Âu Việt là Dao tặng, c̣n hai cô kia do vua Mân Việt là Vô Chư kính hiến.

Vĩ lại hỏi :

-Cả bốn nàng đều nhắc đến tên Bảo Cô, vậy Bảo Cô là ai, khanh có biết không ?

Đáp :

-Bảo Cô là con gái Bảo Tịnh, vợ của Cát Hồng, thường đốt ngải cứu để trị bệnh cho người ta ở Nam Hải.

Bấy giờ Vĩ mới hiểu rơ Bảo Cô là bà lảo đă cho chàng những sợi cỏ ngải cứu ngày trước, ḷng không khỏi kinh sợ.

C̣n Ngọc Quỳnh Tử là con rồng mà cổ xưa An Kỳ Sinh đă cưỡi để lên chầu Thiên Đế, nên mới có hiệu là Ngọc Quỳnh Tử.

Vĩ nhân v́ rơi xuống huyệt, được uống nước răi rồng mà da dẻ trở nên nơn nà, và gân cốt nhẹ nhàng cứng cáp. Chàng sống tại Nam Hải hơn mười năm, rồi đem hết tiền tài gia sản phân phát cho người ta, một ḷng học đạo, rồi đem vợ con đến núi La Phù Sơn đi t́m Bảo Cô.

Rốt cuộc, không ai thấy chàng đâu nữa.

 

(Dịch xong ngày 20-9-2003-lúc 23:49 Phạm xuân Hy)

___________________________________________________________________________

Vài nét về tác giả:

 

Bùi H́nh ( )

Theo "Toàn Đường Thi" và " Đường Thi Kư Sự " th́ vào năm Hàm Thông đời Ư Tông nhà Đường, Bùi H́nh từng chức Chưởng Thư Kư, gia Thị Ngự Sử cho Cao Biền, lúc đó làm Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ ( thuộc Lănh Nam đạo, trị Giao Châu )     

Đến năm Càn Phù ngũ niên (năm 878 ) đời Hy Tông, từ Ngự Sử đại phu, Bùi H́nh được thăng làm Tiết Độ Phó Sứ Thành Đô. Ông soạn bộ "Truyền Kỳ" gồm ba quyển, thuật những sự tích kỳ lạ, biến ảo. Lời văn mỹ lệ, tinh vi, làm say mê người đọc. Tại các triều Đường, Tống, sách cuả ông được phổ biến rộng răi. V́ thế, người thời Tống gọi những tiểu thuyết thần tiên hư ảo đời Đường là " Truyền Kỳ ". Và hai chữ truyền kỳ trở thành tên gọi của một thể tài văn học Trung Quốc (thường gọi là thể truyền kỳ chí quái), Liêu Trai Chí Dị cũng được viết theo thể tài này.

 Sách "Lĩnh Nam Chích Quái " trong truyện Nam Chiếu, thuật là "Niên hiệu Hàm Thông thứ sáu, vua Ư Tông nhà Đường sai Cao Biền sang làm Đô Hộ, đem binh đánh Nam Chiếu, bèn đặt đạo quân Tĩnh Hải ở thành An Nam và cho Biền làm Tiết Độ Sứ. Lỗ Tấn đặt ra câu hỏi là " Việc Biền là ham thích những việc thần tiên, chẳng hiểu có quan hệ ǵ đến Bùi H́nh không ? (Truyện Thôi Vĩ được tuyển từ Thái B́nh Quảng Kư ).

Trong sách An Nam Chí Lược (thế kỷ thứ 14) có chép bài bia “Thiên Oai Kinh Tân Tạc Hải Phái Bia ” do Bùi H́nh soạn.

Rất mong bài bia này được các sử gia chuyên nghiệp để ư nghiên cứu.

 

Vài hàng chú thích của Phạm xuân Hy :

 

Trinh Nguyên ( ) :

Vua Đức Tông nhà Đường làm vua từ năm 780 đến năm 805, có ba niên hiệu là Kiến Trung, Hưng Nguyên và Trinh Nguyên.

Trinh Nguyên là niên hiệu từ năm 785 đến năm 805.

 

Triệu Đà ( ) :

Năm 210 trứơc Công Nguyên, Tần Thủy Hoàng chiếm Lĩnh Nam và chia vùng đất này làm ba quận là Quế Lâm, Hải Nam(nay là tỉnh Quảng Đông) và Tượng Quận, cho Nhâm Ngao làm Nam Hải Uư, (sách Đại Việt Sử Lược  viết là chức Kư Quận)và cho Triệu Đà làm Long Xuyên lệnh( thuộc quận Nam Hải). Cuối đời Tần, Đà nghe lời Nhâm Ngao đánh chiếm Lĩnh Nam, tự xưng là Nam Việt Vương, đóng đô ở Phiên Ngung, (năm 207 trước công nguyên), trước cả khi Lưu Bang được Hạ Vơ phong là Hán Vương  một năm, (tức năm 206 trước CN).

Đến năm 196 TCN, sau khi đă định yên được thiên hạ rồi, Lưu Bang sai Lục Gỉa sang phong cho Đà là Nam Việt Vương.

Tuy Đà vẫn được gọi là Nam Việt Vương, nhưng ư nghĩa khác hẳn nhau. V́ khi Đà xưng là Nam Việt Vương, th́ chữ Vương ở đây là danh hiệu cao quư của người nắm quyền tối cao trong một nước, như vua các triều đại Hạ, Thương, Chu, đều có danh hiệu là Vương cả (Chu văn Vương)cho đến khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc mới bỏ danh xưng là Vương, mà gọi là Hoàng Đế. Vua các triều đại ở Trung Quốc, từ Hán Cao Đế Lưu Bang, tập theo lối của Tần Thủy Hoàng đa số đều gọi là Hoàng Đế.

C̣n chữ Vương trong Nam Việt Vương mà Hán Cao Đế Lưu Bang phong cho Đà, chỉ là một tước phong mà thôi, Đà bị coi như thần tử của nhà Hán. Việc phong vương như thế, chúng ta thấy xẩy ra dài dài trong lịch sứ của nước ta, cho đến khi Pháp đặt quyền cai trị ở Việt Nam th́ chấm dứt.

Đến thời Lă Hậu cấm không cho người Nam Việt mua đồ sắt, Đà tự tôn là « đế », Nam Việt Vơ Đế, cho ngang hàng với nhà Hán rồi đem binh đánh quận Trường Sa.

Sang đến đời Hiếu Văn Đế nhà Hán, Văn Đế sai Lục Giả sang trách việc Đà tự lập làm « đế », th́ Đà giải thích :  « Lăo thần trộm dùng bậy danh hiệu « đế »chỉ để tự mua vui chứ đâu dám để nói đến tai bệ hạ ».

Coi ngôi báu như một tṛ mua vui, Đà quả là một tay chơi ngông.

 (Đọc thêm Sử Kư của Tư Mă Thiên : Nam Việt Liệt Truyện)

 

Việt Tỉnh Cương (越 井 岡) :

Tức núi Việt Tú Sơn, nay thuộc phía bắc Quảng Châu

 

Hồ Già (胡 笳 ) :

Là một loại nhạc cụ thổi bằng ống của người Hồ, thời Đường rất thịnh hành ở vùng biên giới phía bắc Trung Quốc và Tây Vực.

 

Hồ nhân (胡 人) :

Thi c ngưi Trung Hoa gi nhng ngưi dân tc Tây Vc và ngưi biên gii phía bc là ngưi H. T thi nhà Hán tr v sau, ngưi Tu gi chung các ngưi ngoi quc gi là H nhân.

 

Điền Hoành ( 田 横) :

Điền Hoành người Địch Huyện (nay nằm phía đông nam huyện Cao Thanh, tỉnh Sơn Đông) vốn là ḍng giơi quư tộc nước Tề. Cuối đời nhà Tần theo anh là Điền Đam khởi binh xây dựng lại nước Tề. Trong lúc Hán và Sở tranh nhau thiên hạ, th́ Hoành tự lập làm Tề Vương, được ít lâu th́ bị quân Hán đánh bại, phải chạy sang nhờ cậy Bành Việt. Khi nhà Hán thành lập, Hoành dẫn năm ngàn người đồ đảng chạy ra hải đảo, Hán Cao Tổ cho vời Hoành đến Lạc Dương, nhưng Hoành không muốn làm thần tử nhà Hán, đến giũa đường bèn tự sát. Những người đi theo Hoành ra cư trú ở hải đảo, được tin Hoành chết, đều tự sát tất cả.

(Hoành chết năm 202 trước Công Nguyên, không rơ năm sinh)

 

An Nam Đô Hộ Triệu Xương (安 南 都 護 趙 昌 ) :

Theo An Nam Chí Lược của Lê Tắc th́ : Triệu Xương tự là Hồng Tộ làm Thứ Sử Kiền Châu, gặp lúc tù trưởng An Nam là Đỗ Anh Hàn khởi binh chống lại, vua (tức Đường Đại Tông) cho Triệu Xương làm Đô Hộ. Xương ở An Nam mười năm, chân đau xin về nước.

Theo Đại Việt Sử Kư Toàn Thư th́ :Nhà Đường lấy Triệu Xương làm Đô Hộ. Xương vào trong cơi ḷng dân bèn yêu . Xương sai sứ dụ An (tức Phùng An con của Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng), An đem quân hàng. Xương đắp thêm La Thành kiên cố hơn trước, ở chức 17 năm, v́ đau chân xin về, vua Đường chuẩn cho, lấy Lang Trung Bộ Binh là Bùi Thái thay Xương. (Theo truyện th́ Xương giữ chức An Nam Đô Hộ được về thay Thứ Sử Quảng Châu là Từ Thân mất )

Cũng theo Đại Việt Sử Kư Toàn Thư th́ Đỗ Anh Hàn không phải tù trưởng An Nam mà là người đồng hương của Phùng Hưng đă hiến kế cho Phùng Hưng đem quân vây phủ, khiến cho Cao Chính B́nh (lúc đó là An Nam Đô Hộ ) lo sợ phẫn uất thành bệnh ở lưng mà chết.

Năm ngoài bẩy mươi tuổi,  Xương lại được Đường Đức Tông bổ làm Đô Hộ Giao Châu.

 

Cát Hồng (葛 洪:

Sinh năm 283 mất năm 363 )

Người thời Đông Tấn, nổi tiếng là Đạo Giáo học giả, Luyện đan gia, tự là Trĩ Xuyên, hiệu là Băo Phác Tử, người Đan Dương Câu Dung (nay thuộc Giang Tô), đời gọi là Tiểu Tiên Ông, xuất thân trong một thế gia đại tộc, quảng lăm chư tử bách gia, ham thích phép thần tiên đạo dưỡng. Tư Mă Duệ dùng làm duyện thuộc tham quân, sau nhờ có công trấn áp cuộc nổi dậy của Thạc Băng thăng làm Phục Ba Tướng Quân, tước Quan Nội Hầu.

Đầu năm Hàm Ḥa đời Tấn Thành Đế, nghe đất Giao Chỉ có nhiều đan sa, ông xin được làm Câu Lậu lệnh(nay ở phía nam tỉnh Quảng Tây. ), rồi đem con cháu đến Quảng Tây, lên núi La Phù Sơn hái thuốc luyện đan tu hành ở đấy.

Ông chủ trương rằng muốn sống lâu người theo đạo học phải đa văn quảng kiến, biết khí pháp, đạo dẫn, luyện kim đan, pḥng trung thuật. . . mới có thể trường thọ thành tiên được. Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh phải lấy trung hiếu, thuận ḥa, nhân tín, làm căn bản, c̣n không tu tŕ đạo đức, mà chỉ chuyên vào phương thuật không thôi, không thể đạt đến chỗ trường sing được.

Trứ tác của ông để lại hiện nay c̣n có : « Băo Phác Tử nội biên », « Băo Phác Tử ngoại biên »,  « Đạo Tạng », « Thần Tiên Truyện ».

An Nam Chí Lược của Lê Tắc chỉ viết rất sơ sài về ông

 

Việt Vương đài ( ) :

Đài do Nam Việt Vương Triệu Đà xây cất, nay trên núi Việt Tú Sơn ở tỉnh Quảng Tây.

 

Nam Việt Vương mộ ( )

Theo truyện th́ Thôi Vĩ rơi xuống một ngôi mộ, đó là mộ của Triệu Đà.

Nhưng vào tháng sáu năm 1983, tại tỉnh Quảng Đông, thị trấn Quảng Châu, trên núi Tượng Cương Sơn người ta đă khai quật một ngôi mộ đời vua thứ hai nhà Triệu tên là Triệu Muội, mà trong Đại Việt Sử Kư Toàn Thư gọi đời vua thứ hai này của nhà Triệu là Văn Vương, húy là Hồ, con của Trọng Thủy, cháu của Triệu Đà, lên nối ngôi Đà vào năm Kiến Nguyên thứ tư đời Hán Vơ Đế (tức năm 137 t CN ), và chết năm 125 tCN. Về sau được nhà Trần phong là Khai Thiên Tác Đạo Thánh Vơ Thần Triết Hoàng Đế .

Ngôi mộ của Triệu Văn Vương có bề ngang là 12. 42 m, bề dọc là 10. 8 m, cao 3 m. Phía trước phía sau, bên tả, bên hữu, có bốn ngôi trắc thất. Tiền thất là môn sảnh, hậu thất là mộ chủ để quan tài của Triệu Văn Vương. Quan tài này đă bị hủ nát, nhưng xương cốt của Triệu Văn Vương được bao bọc trong một chiếc ngọc y, từ trên xuống dưới gắn mười viên ngọc bích. Ở hai bên nách của mộ chủ đeo 10 thanh kiếm sắt, và 8 ấn chương, mà ấn lớn nhất là viên ngọc tỉ của Triệu Văn Vưong, có đề bốn chữ : “Văn Đế Hành Tỉ” . C̣n hai căn pḥng trắc thất hai bên cạnh, là nhà mồ của những cơ thiếp, nhạc sư, trù sư, ngự nữ, những người bị bồi táng chung với Triệu Văn Vương, Các nàng cơ thiếp th́ đeo ấn đề “Hữu Phu Nhân Tỉ” và “Tả Phu Nhân Tỉ”.

Ngoài ra, người ta c̣n t́m thấy hơn một ngàn khí vật khác như thạch ngọc khí, kim ngân khí, thanh đồng khí, đào khí, đồ sơn, và tơ lụa, rất quư trọng, và hữu ích cho người nghiên cứu về lịch sử của nước Nam Việt ngày xưa. Tất cả những bảo vật trên hiện đang ở viện bảo tàng Nam Việt Vương Mộ Bác Vật Quán ổ Quảng Châu. . (Tài liệu trích trong Hoa Hạ Văn Hóa Từ Điển )

Từ viên ngọc tỷ của Triệu Văn Vương với 4 chữ đề là Văn Đế Hành Tỉ chứng tỏ cho thấy là bề ngoài dù Triệu Đà đă viết thư cho nhà vua Hán là Lưu Hằng, chịu từ bỏ đế hiệu, nhưng trên thực tế đến đời cháu vẫn hành xử đế hiệu, không chịu nhận tước vương đă bị nhà Hán phong cho.

Và cũng chứng tỏ thêm một điều nữa là chữ Hán đă có mặt ở nước Nam Việt vào thời nhà Triệu, chứ không phải bắt đầu ở thời Sĩ Nhiếp, như nhiều người đă viết.

Trước đây trên báo Khởi Hành, h́nh như giáo sư Trần Ngọc Ninh đă có bài viết về ngôi mộ này. Và trên Minh Báo của ông Tra Lương Dung, xuất bản ở Hồng Kông cũng có tác giả viết về ngôi mộ này. Nhưng báo tôi bị mất không c̣n tra cứu thêm được.

 

Tuẫn táng (殉 葬) :

Là tục lệ dùng người hoặc vật chôn theo với người chết gọi là tuẫn táng. . Ở Trung Quốc, tục lệ tuẫn táng có từ thời nguyên thuỷ xă hội, người Tàu đă có tục đem những vật dụng tùy thân, vơ khí, cùng những vật phẩm được yêu thích chôn theo với người chết. Sang dến chế độ nô lệ, th́ nô lệ bị giết hoặc bị chôn sống để làm tuẫn táng phẩm. Trên phương diện giai cấp, phụ nữ chỉ là ngoạn vật, hoặc vật phụ thuộc của đàn ông quư tộc, v́ thế cũng bị chôn theo người chết để làm vật tuẫn táng. Sách ''Tây Kinh Tạp Kư'' có ghi rằng :Mộ phần của U Vương nhà Chu có hơn một trăm người phụ nữ bị chôn theo. Kẻ ngồi người nằm, hoặc đứng. y phục sắc thái không khác ǵ người sống. Phần lớn là những phi tần của vua U Vương.

Đến thời nhà Tần, tục tuẫn táng phát triển đến cực điểm, và được coi là tàn khốc nhất.

Khi Tần Thuỷ Hoàng chết, Tần Nhị Thế hạ lệnh bồi táng toàn bộ tất cả những phi thiếp và cung nữ không có con với Tần Thuỷ Hoàng. Sách Hán Thư ghi rằng số người cung nữ cùng với thợ bị tuẫn táng lên đến hàng vạn.

Đến đời nhà Hán, tục tuẫn táng bị băi bỏ. Hán Vơ Đế sau khi chết, những tuẫn táng vật dược sử dụng là những kim ngân châu báu, và những loại cầm thú chim chóc, trâu, dê, ngựa, báo c̣n sống để thay thế cho hàng ngàn cung nữ phi thiếp, được bảo toàn tính mệnh đưa ra phụng thị lăng tẩm.

Đến đời Minh, tục phụ nữ tuẫn táng lại được phục hồi, và người phục hồi ác tục này lại chính là Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Khi người con thứ của ông chết, ông bắt hai người vương phi phải bị tuẫn táng theo. Và chính bản thân Chu Nguyên Chương khi chết, cũng có 46 người phi thiếp bị chết theo. Măi đến năm 1464, Minh Anh Tông lúc gần chết mới để di chiếu lại nói rằng ''Dùng người tuẫn táng theo trẫm là điều bất nhẫn, từ trẫm trở đi con cháu đời sau không được làm điều này nữa. ”

Người ta giải thích về ác tục này là do cổ nhân ngày xưa tin rằng linh hồn bất diệt, con người sau khi chết xuống dưới âm gian tiếp tục sinh hoạt, cho nên các vua quan muốn giữ cái vinh hoa phú quư lúc sinh tiền, mới đem thê thiếp, nô bộc cùng xuống để tiện bề sai khiến.

 

Ư của hai bài thơ trên đây :

Bài 1

Đài hoang bị hủy đă trăm năm nằm bên vệ đường

Nhờ có thái thú sửa chữa trang hoàng lại

Tạ ơn đă giúp đỡ trùng kiến Việt Vương đài

Xin tặng ngọc báu và mỹ nữ làm vợ

Bài 2

Trên đầu núi Việt Tỉnh Cương tùng bách xanh già

Trên đài Việt Vương cỏ thu đă lại mọc ra  

Mộ cổ nhiều năm không có con cháu đến

Để cho người ta đi lại thành đường cái quan

 

Nhâm Ngao (任囂):

Nhâm Ngao là Quận úy quận Nam Hải đời Tần, khi nhà Tần sắp bị diệt vong th́ Nhâm Ngao tiến cử Triệu Đà lên thay, lúc đó Đà đang làm huyện lệnh Long Xuyên, một huyện của quận Nam Hải.

Cũng xin ghi thêm rằng so sánh về nguồn gốc địa vị th́ Triệu Đà hơn hẳn Lưu Bang ở chỗ Bang chỉ là một người Đ́nh Trưởng, trong khi Đà là Huyện lệnh. Hơn thế nữa, Bang lúc đó thuộc giai cấp b́nh dân, không có tên gọi, chỉ gọi là Lư Quư, như ta gọi cậu út vậy, sau này mới gọi là Bang.                            __________________________________________________________________________________________

* Bài viết của anh Phạm Xuân Hy, một nhà nghiên cứu văn hóa Đông Phương ở Paris, trước có làm cho Quỹ Bảo Hiểm Xă Hội (Securite Sociale) của Pháp, nay đă nghỉ hưu. Anh Hy là thân hữu của sempai Đào Hữu Dũng (Japan). Anh Hy đă đồng ư chia sẻ trên ERCT . Xin cám ơn anh Dũng và anh Hy.

Cảm tưởng về thơ văn của anh Phạm Xuân Hy xin gởi về  pxhy@erct.com