|
TU
VĂN XÁ NHÂN TRUYỆN
修
文 舍 人 傳 Nguyên
tác : Tiễn Đăng Tân Thoại Tác
giả
: Cù
Hựu Bản
dịch của :
Phạm Xuân Hy Hạ Nhan tự là Hy Hiền, người huyện Trấn
Trạch đất Ngô Trung, bác học đa
tài, tính t́nh hào hùng phóng khoáng, thường thường
đội khăn, mặc áo cừu, chu du giữa
hai vùng phía đông và tây Triết Giang. Nhan
lại say mê bàn luận thời sự một cách
hăng hái, thường thao thao bất tuyệt,
không hề biết mệt mỏi, được
người đời rất khâm phục. Tuy thế, phận số mỏng manh, ẩm hiu,
thực dụng trong nhà mỗi ngày chẳng đủ,
nên thường tự thở dài, than rằng : - Hạ Nhan ơi ! Ngươi rèn luyện thân tâm,
cẩn thận hành sự, mà sao không đem
nổi no ấm cho gia đ́nh ?. Than xong, lại tự an ủi, giải thích : - Nhan Uyên bị khổ nơi
ngơ hẹp, đâu phải v́ không đủ đạo
nghĩa ? Gỉa Nghị có
tài trị lư quốc gia mà phải ép ḿnh làm Thái
Phó ở Trường Sa, há phải v́ văn
chương không phú lệ sao ? Đời Hán, làm
Hiệu Uư th́ được phong hầu, c̣n danh
tướng Lư Quảng th́ lại không, há đâu
phải v́ không đủ trí dũng ? Lại như,
Châu Nho ăn no đến chết, mà Đông Phương Sóc luôn lo chết đói,
há phải v́ tài năng không được
mẫn tiệp sao? Âu cũng là do số mệnh
của mỗi người cả, không nên cố
ép, cưỡng cầu. Thôi th́, ta cứ thuận
theo tự nhiên mà chấp nhận, chẳng nên
đi t́m làm ǵ. Vào đầu năm Chí Chính dời Nguyên Thuận
Đế, Nhan mất, trong lúc khách cư ở Nhuận
Châu, xác chôn dưới chân núi Bắc Cố Sơn. Sinh tiền, Nhan có người bạn giao t́nh
rất hậu. Một hôm, th́nh ĺnh người
bạn gặp Nhan ở giữa đường,
ngồi trong một chiếc xe thật lớn, có
lọng hoa nghênh ngang, đầu đội mũ
cao, dát ngọc, uy nghi như
bậc công hầu. Trước sau, lại có
bọn thị ṭng cầm vơng to, nghi trượng
lớn, đi theo mở đường bảo
vệ, phong thái phiêu dương, khác hẳn
với ngày xưa. Xe và đoàn tuỳ tùng của Nhan nhắm
hướng bắc đi tới, người
bạn không dám đường đột gọi
lại. Một hôm khác, người bạn của
Nhan dậy sớm, tản bộ trước
cửa, lại gặp lại Nhan ở giữa
đường. Nhan vội vă vạch màn,
xuống xe, chắp tay thi lễ, hỏi : -Cố nhân có được an mạnh không
? Người bạn bèn cùng Nhan đem
cựu t́nh hàn huyên, nắm tay nhau khẩn
khoản đàm đạo như lúc Nhan c̣n
sống. Người bạn hỏi : -Cùng huynh cách biệt chưa lâu, mà nay thang
mây rạng rỡ, địa vị hiển quư,
xe ngựa bộc ṭng thênh thang, mũ áo xiêm y hoa
lệ thế này, có thể nói là điều
đắc ư của bậc
đại trượng phu,
khiến đệ hâm mộ quá ! Nhan đáp : -Nay đệ đang nhậm chức ở dưới
âm gian, địa vị cao trọng, nhưng
chức vụ thanh nhàn. Cố nhân đă hỏi,đệ
nào lại dấu diếm. Chỉ v́ giữa
đường giữa chợ, không tiện
thuật rơ cho cố nhân biết mà thôi. Quả
như cố nhân không nghi ngại, tối mai xin
hẹn cố nhân đến Đa Cảnh Lâu
ở chùa Cam Lộ, đủ th́ giờ cho đệ
bầy tỏ niềm riêng sau ngày cách biệt, như
vậy có được không ? Mong rằng cố
nhân sẽ không chê đệ là ma mà nghi ngại
từ chối ! Người bạn nhận lời rồi
từ giă chia tay. Tối hôm đó, người bạn đem
sẵn rượu ngon và đồ nhắm
tốt đến Đa Cảnh Lâu, th́ đă
thấy Nhan có mặt ở đấy từ trước.
Nhan thấy bạn y hẹn th́ thập phần
mừng rỡ, đứng dậy, chậy ra
tiếp rước, nói : -Huynh quả là người thành thực,
thủ tín, đúng là chỗ sinh tử chi giao
được ! Xong lại tiếp : -Ở dưới âm gian, vui cũng không kém
ǵ dương thế. Nay đệ đang làm Tu Văn
Xá Nhân,
chức vụ mà Nhan Uyên và Tử Hạ ngày trước
từng làm. Nhưng ở dưới này, việc
tuyển dụng, đề bạt, thăng thưởng
người, rất là tinh tường. Tài năng
và chức vụ phải tương xứng với nhau,
mới ban quan tước, cho hưởng bổng
lộc, chẳng giống như ở dương
thế, có thể dùng hối lộ để mua
quan tước, hoặc do môn đệ con ông cháu
cha mà tiến thân, hoặc v́ hư danh mà giữ
chức lớn. Đệ xin cùng huynh bàn bạc. Cứ xét
việc quan trường ở trên thế gian
hiện nay xem. Ở vai Tể tướng, há có
phải là những Tiêu Hà, Thào Tham, Bính Cát,
Ngụy Tướng chăng ? Người cầm
binh làm tướng, há đều phải là
những tài năng quân sự như Hàn Tín, Bành
Việt, Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh ?
Bậc văn học nho thần, phô bấy văn
chương chữ nghĩa ở Hàn Lâm Viện,
há đều phải là Ban Cố, Dương Hùng,
Tư Mă Tương Như, Đổng Trọng Thư
chăng ? Tại ấp quận, chăn dắt dân
chúng, phải chăng đều là những viên
quan biết thương dân như Cung Toại, Hoàng
Bá, Chiêu Tín Thần, Đỗ Thi ? Sự thực không phải như thế. Trên dương gian ngày nay, ngựa Kỳ,
ngựa Kư th́ phải kéo muối.Ngựa
liệt, ngựa què nằm ăn cỏ thơm.
Chim cú làm tổ nơi cung đ́nh. Phượng
hoàng phải đậu trên cành gai nhọn. Người
tài đức, da mặt xanh xao vàng vọt,
chết dưới hoàng tuyền. Đứa vô
hạnh kéo bè kết đảng vinh vang trần
thế. Bởi vậy, thiên hạ đại
trị thường ít thấy. Binh hoang mă
loạn lại quá nhiều. C̣n dưới âm gian th́ khác hẳn. Việc thăng quan, giáng chức nhất
nhất phải quang minh rơ ràng.Việc thưởng
phạt nhất định phải công b́nh.
Bọn phản vua hại chúa, bọn gian thần
làm hại nước, khi sống từng tước
cao bổng hậu, nay xuống âm gian, nhất
định phải chịu tai hoạ. Người
ngày trước tích thiện, tu nhân, chịu
điều khốn khó, lúc xuống âm gian sẽ
được hưởng phúc.Sinh tử luân
hồi,trước sau báo ứng, không ai có
thể đào thoát đươc. Nói xong, Nhan đổ đầy rượu
làm một hơi cạn sạch, liên tiếp ba
bốn chén tống, rồi dựa
vào lan can, đưa mắt
vọng trông ra phía xa, miệng ngâm mấy câu
thơ (1) tặng người
bạn. Sau đó, đưa tay xoa đầu
ngẫm nghĩ, rồi tiếp : -Điều tối cao thượng là tu dưỡng
đạo đức, sau đến lập công
danh, và sau nữa là lập ngôn.Lúc đệ c̣n
sinh thời, chẳng lập được đức
nghiệp ǵ, cũng không lập được công
nghiệp nào, nhưng có trứ tác và thu góp
được gần
trăm quyền. Văn chương được
hơn ngh́n bài, đều là nghiên cứu về
sự thâm áo vi diệu của sự vật. Sau
khi khứ thế, gia nghiệp suy bại, môn
hộ bên trong, đồng bộc không ai ngó ngàng.
Bên ngoài th́ lại thiếu người có
thể hiểu được giá trị những
tác phẩm của đệ. Thêm vào đó, đạo
tặc ăn trộm, chuột bọ đục
khoét, văn cảo mười phần chỉ c̣n
lại một hai, thật đáng tiếc. Đệ
khẩn khoản xin huynh, thương tài mà
nhớ, nghĩ đến giao t́nh cố cựu mà
giúp người cấp bách, thi ân cho kẻ không
báo được, đem những thủ cảo
này của đệ khắc
in, truyền cho kẻ hiếu sự, hoạ may tránh
khỏi bị
hủ nát cùng cỏ cây. Đó chính là cái
ơn của huynh, nay đem nói ra, cũng thật
là điều xấu hổ. Người bạn nhận lời, hứa
sẽ thi hành. Nhan tỏ ra thập phần
mừng rỡ, hiện trên nét mặt, bèn bưng
cao chén rượu lên, hướng về phía người
bạn vái tạ, như muốn bầy tỏ ḷng
biết ơn. Phía đông, trời đă dần dần sáng
rơ. Nhan cùng người bạn cáo biệt,
rồi biến mất. Người bạn Nhan trở về Ngô
Trung, t́m đến nhà của Nhan, trừ một
số văn cảo bị thất tán và bị tàn
khuyết, thấy c̣n để lại mấy trăm
bài viết, cùng những sách sáng tác như :
Cấp Cổ Lục, Thông Huyền Chí.Nhân
thế vội vă t́m thợ khắc in và đem ra
hàng sách bán, để truyền bá rộng răi cho
mọi người. Vài hôm sau, người bạn thấy Nhan
đến để tạ ơn.Và như thế
nhiều lần. Mỗi lần được người
bạn hỏi Nhan về sự cát hung, may rủi,
Nhan đều dự tiên báo trước. Ba năm sau, người bạn bị
bệnh, Nhan đến thăm, nhân tiện nói
: -Đệ được sung nhậm ở
Tu Văn Phủ, thời hạn đă măn. Phủ
sẽ kiếm người thay thế. Ở cơi âm
gian, chức vụ này rất được coi
trọng, rất khó đến tay. Nếu như
huynh không thích chức vụ này, th́ đệ không
dám ép, vạn nhất như muốn, đệ
xin hết ḷng tiến cử. Sở dĩ phải
hấp tấp nghĩ ngợi như vậy, là để
đền đáp cái ơn của huynh đă cho
in những trứ tác của đệ. Người
ta sống ở trên đời rồi đều
phải chết, miễn cưỡng có sống thêm
vài năm, cũng đâu có thể vĩnh cửu
trên thế gian này măi. Người bạn vui vẻ nhận
lời, an bài hậu sự, rồi không chịu
uống thuốc trị liệu. Được vài hôm th́ mất. (Dịch
xong lúc 24: 09 ngày 26-8-2005 – Nhớ Ngô Mạnh Thu,
tặng Phạm Quốc Bảo
) Vài
nét về tác giả . Cù Hựu (瞿
佑)
: Tu Văn Xá Nhân Truyện được
trích từ Tiễn Đăng Tân Thoại
箭
燈 新 話 của Cù Hựu. Cù Hựu tự là Tông Cát, biệt
hiệu là Tồn Trai người Tiền
Đường, nay thuộc Hàng Huyện tỉnh
Triết Giang. Ông sinh năm Chí Chính nguyên niên nhà Nguyên tức năm
1341.Hồi c̣n trẻ nổi tiếng là người
đa tài đa nghệ, giỏi thi thơ, nhưng
thường bất đắc chí. Đầu năm
Hồng Vơ đời Minh Thái Tổ, Cù Hựu
được lần lượt bổ nhậm làm
Huấn Đạo tại Nhân Hoà, Lâm An, Tuyên Dương,
rồi thăng làm Hữu Trưởng Sử trong
Chu Vương Phủ. Khoảng năm Vĩnh
Lạc đời Minh Thành Tổ, nhân làm thơ
bị tội, đầy đến huyện
Bảo An (nay là tỉnh Cam Túc) làm nhung thú,
trải qua mười năm, đến năm
Hồng Hy (tức năm 1425) đời vua Minh Tông
mới được xá, về làm gia sư cho
Anh Quốc Công ba năm, đến năm Tuyên
Đức nhị niên th́ mất, thọ tám mươi
bẩy tuổi. "Tiễn Đăng Tân Thoại"
được viết vào khoảng Hồng Vơ
thập nhất niên, tức 1378, gồm bốn
quyển, hai mươi
truyện.Phần lớn những truyện
trong Tiễn Đăng Tân Thoại đều
lấy ma quỷ quái dị, hôn nhân luyến ái, làm
đề tài phản ánh những hiện thực
xă hội hắc ám, hủ bại dưới
triều nhà Nguyên, cũng như
chống lại những điều vô lư
trong chế độ hôn nhân phong kiến cũ.
Nhưng Tiễn Đăng Tân Thoại lại
mạnh dạn tuyên dương tư tưởng
"Trung, Hiếu, Tiết , Nghĩa" và
những phong tục mê tín quỷ thần Ngoài Tiễn Đăng Tân Thoại,
được người đời truyền
tụng và khen là
có những ngôn từ hoa lệ, uỷ uyển như
"ôm thuư ấp hồng",ảnh hưởng
rất nhiều đối với tiểu
thuyết của hai triều Minh và Thanh, như Liêu
Trai Chí Dị,Dạ Đàm Tuỳ Lục, Cù
Hựu c̣n để lại cho đời sau
một số tác phẩm như : - Hương Đài Tập - Du Nghệ Lục - Tồn Trai Loại Biên -Qui Điền Thi Thoại. -Vịnh
Vật Biên -Nhạc
Phủ Di Âm Vài
hàng chú thích của Phạm Xuân Hy : Tu Văn 修
文: -Thời
xưa người ta gọi các bậc văn nhân
bị mất sớm là tu văn. Cho nên Đỗ
Phủ từng có câu thơ rằng : Nhất
đại phong lưu tận 一 代 風
流 盡 Tu văn
địa hạ thâm. 修 文 地
下 深 (Một
đời phong lưu đă hết, bậc văn
nhân mất sớm nằm sâu dưới đất) -Tu
văn c̣n có nghĩa là hưng tu văn giáo.Năm
621 nhà Đường thiết lập ra Tu Văn
Qúan, đặt ra Học Sĩ, trông coi việc
hiệu chính sách vở, dậy sinh đồ, tu
sửa các nghi lễ của triều đ́nh.Đến
năm 626 đổi tên là Hoằng Văn Qúan. Đầu
đời Minh cũng đặt Hoằng Văn Quán,
sau phế bỏ. Chấn
Trạch 震
澤: Tức Thái Hồ
là một trong năm hồ lớn - Ngũ Hồ-
của Trung Quốc là Động Đ́nh Hồ,
Thái Hồ, Sào Hồ, Phan Dương, và Hồng
Trạch Hồ. Thái Hồ nằm vắt ngang hai
tỉnh Giang Tô và Triết Giang, do bùn cát ở
hạ du hai sông Tiền Đường và Trường
Giang ứ tắc cổ hải loan mà thành. Hồ
rộng 2425 kí lô mét.Bên trong hồ 48 cái đảo lớn hoặc nhỏ, là một
thắng tích nổi tiếng của Trung Quốc,
như cảnh sơn thuỷ vùng Vô Tích, Viên Lâm
ở Tô Châu, những hang động thiên nhiên
ở Nghi Hưng. Nhan
Uyên 顏
淵
: Nhan Uyên sinh năm 521 trước
Công Nguyên, mất năm 490 trước Công Nguyên,
là đệ tử Khổng Tử tên là
Hồi,tự là Tử Uyên,người nước
Lỗ thời Xuân Thu, tính thông minh mẫn
tiệp, hiếu học, không trút giận qua người
khác, cũng không lầm lỗi đến hai
lần, sống vui nơi ngơ hẹp tồi tàn,
với rỏ cơm bầu nước, được
Khổng Tử khen là người hiền, hậu
thế tôn là "Phục Thánh" , xếp vào
Tứ Phối (Nhan Uyên,Tăng Sâm, Tử Tư,Manh
Kha) để thờ chung với Khổng Tử và
Chu Công thờ ở Văn Miếu. Giả
Nghị 賈
誼
: Giả Nghị sinh năm 200
trước Công Nguyên và mất năm 168 trước
Công Nguyên. Ông là người Lạc Dương
( nay là Lạc Dương Hà Nam), văn học
gia, chính luận gia thời Tây Hán, thường
gọi là Giả Sinh. Hồi c̣n trẻ đă
đọc được sách Thi Thư, lại
giỏi văn chương, nên được người
trong quận ca tụng. Đ́nh Uư Ngô Công tiến
cử Giả Nghị lên Hán Văn Đế,
được Hán Văn đế bổ nhậm
làm Bác Sĩ, ít lâu sau thăng làm Thái Trung Đại
Phu. Đối với sự
hủ bại của thời chính, Giả Nghị
từng nhiều lần đề xuất chủ
chương đổi mới, như đề
nghị phong nhiều chư hầu để tước
nhược thế lực của chư hầu vương,
củng cố trung ương tập quyền,
chủ trương trọng nông ức thương,
đánh trả các quư tộc Hung Nô xâm lược.
V́ thế bị các đại thần thủ
cựu như Chu Bột, Quán Anh chỉ trích, bài xích,
rồi bị Hán Văn Đế lạnh
nhạt, biếm làm Thái Phó cho Trường Sa Vương.Trong
ba năm làm Thái Phó cho Trường Sa Vương,
lúc đi qua Tương Thuỷ, ông làm bài phú
để điếu Khuất Nguyên, rồi
lại làm bài Bằng Điểu Phú.Về chính
luận ông có "Trần Chính Sự Sớ",
và "Quá Tần Luận" Sau lại ông được
chiêu về làm Thái Phó cho Lương Hoài Vương,
một người con yêu của Hán Văn Đế.
Khi Lương Hoài Vương bị té ngựa
chết, ông cho đó là lỗi của ḿnh,
buồn rầu sinh bệnh mà mất, mới 32
tuổi. Thái
Phó 太
傅: Thái Phó có các nghĩa: -Một chức quan thời
cổ,một trong Tam Công, nhà Chu đặt ra
chức quan này đầu tiên, có nhiệm vụ
phụ giúp quốc quân.Nhà Tần phế, nhà Hán
thiết lập lại. Địa vị của
Thái Phó chỉ dưới Thái Sư, cùng vơi
Thái Sư, Thái Bảo, được coi là ba
trọng thần, tham dự triều chính, cùng nhau
nắm giữ quyền hành về quân sự và chính
trị toàn quốc. -Thời Đông Hán, mỗi
lần vua mới lên ngôi, đều đặt ra
một Thái Phó. Các đời sau do quan khác kiêm lănh,và
phần lớn là vinh hàm của các đại
thần, không có thực chức. Các triều Minh và Thanh, Thái
Sư, Thái Phó, Thái Bảo chỉ là
cũng không phải là thực chức. -Ngoài ra, người trông
coi dậy dỗ Thái Tử cũng gọi là Thái
Phó, như Giả Nghị là Thái Phó của Trường
Sa Vương và, Lương Hoài Vương, con
của Hán Văn Đế, và thường
gọi là Thái Tử Thái Phó. Cam
Lộ Tự 甘
露 寺: Chùa này đươc xây vào năm
Cam Lộ đời
Ngô Mạt Đế ở Bắc Cố Sơn, v́ thế mà thành
tên gọi.; Tể
Tướng 宰
相: Tên một chức quan.Dưới
thời phong kiến, tể tướng là người
chịu trách nhiệm trước hoàng đế,
là người pḥ trợ hoàng đến, là
vị trưởng quan cao cấp nhất ,
thống lănh các quan, nắm giữ tất các
việc chính trị. Tể có nghĩa là chủ
tŕ Tướng
có nghĩa là pḥ trợ, trợ giúp. Tuỳ theo mỗi triều
đại, tể tướng có những danh xưng
khác nhau, chức quyền rộng hay hẹp, và
quyền hành cũng khác nhau. -Chẳng hạn, nhà Tần
và nhà Tây Hán th́ Tể Tướng gọi là Tướng
Quốc, hay Thừa Tướng.Lư Tư là
Thừa Tướng nhà Tần,c̣n Ngự
Sử Đại Phu là một chức phó. -Thời Đông Hán,
chức Tư Đồ ngang với chức
Thừa Tướng, như Tư Đồ Vương
Doăn, cùng với các chức Tư Không và Thái Uư
coi về chính
vụ, nhưng thực quyền đều
thuộc về Thượng Thư Lệnh,
nắm hết mọi việc. -Từ các thời Ngụy
Tấn trở về sau, th́ dùng những
Trung Thư Giám, Trung Thư Lệnh, Thị
Trung, Thượng Thư Lệnh, Bộc Xạ,
hay các tướng quân nắm chính quyền làm
Tể Tướng, không có định danh xưng. -Sau triều Tuỳ,Đường,
dùng vị trưởng quan ở ba cơ quan là
Trung Thư, Môn Hạ, Thượng Thư (Tức
Trung Thư Lịnh, Thị Trung, Thượng Thư
Lịnh, Bộc Xạ) làm Tể Tướng.
Từ sau trung kỳ nhà Đường, hoàng
đế chủ tŕ tuyển chọn những quan
khác gia thêm chức hàm
Tham Tri Chính Sự hoặc Đồng Trung Thư
Môn Hạ B́nh Chương Sự làm Tể Tướng,và
các triều sau đó
duyên theo. -Đời Tống, lấy
Đồng B́nh Chương Sự làm Tể Tướng,
và lấy chức phó là Tham Tri Chính Sự hợp
xưng là Tể Chấp.; -Đời Nam Tống, năm
1129 lấy Tả Hữu Bộc Xạ gia thêm
Đồng Trung Thư Môn Hạ B́nh Chương
Sự làm Tể Tướng.Năm 1172 đổi
Thượng Thư Tả Hữu Bộc Xạ ra
Tả Hữu Thừa Tướng. -Thời Nguyên lấy Trung Thư
Tỉnh làm Chính Vụ Trung Khu, c̣n Trung Thư
Lệnh thỉnh
thoảng Thái Tử, hoặc thân vương kiêm
lănh, c̣n dưới th́ đặt Thừa Tướng,
B́nh Chương Tham Chính. -Đời Minh từng
thiết lập chức Thừa Tướng, sau
để đề pḥng sự quyền thần
soán đoạt, nên trừ bỏ chức Thừa
Tướng, dùng Đại Học Sĩ pḥ
trợ hoàng đế, xử lư chính vụ, v́
thế, Đại Học Sĩ
trên thực tế là Tể Tướng. -Đời Thanh duyên theo. Trong văn thơ cổ
điển của Trung Quốc,người ta thường
gọi Tể Tướng bằng thành ngữ
"Sa lung trung nhân-Người ở trong lồng
the", v́ Tể Tướng đời Đường
là Lư Phiên, khi chưa ra làm quan, có vị tăng
bảo Lư Phiên là "Sa lung trung nhân", và
bảo rằng người có phúc phận làm
Tể Tướng, th́ ở dưới âm gian
đă nặn tượng, và dùng lồng bằng
the đậy lại để bảo vệ Tiêu
Hà 蕭
何 : Tiêu Hà là đại thần
thời kỳ đầu nhà Tây Hán, người
Bái Huyện ( nay thuộc tỉnh Giang Tô), từng
làm tư lại ở Bái Huyện. Cuối đời
nhà Tần, pḥ tá Lưu Bang khởi nghĩa. Khi quân
Lưu Bang vào chiếm Hàm Dương, kinh đô
nhà Tần, Tiêu Hà thâu thập hết các luật
lệnh, đồ thư, sách vở của nhà
Tần, nhờ thế hiểu biết được
tất cả những chỗ sơn xuyên hiểm
yếu, hộ tịch của các quận
huyện, cũng như t́nh h́nh xă hội lúc
bấy giờ. Trong cuộc chiến tranh giữa Lưu
Bang và Hạng Vơ, Tiêu Hà tiến cử Hàn Tín làm
Đại Tướng cho Lưu Bang, c̣n Tiêu Hà
ở lại giữ Quan Trung, lo việc lương
hướng, chi tŕ sĩ tốt tác chiến, thành
thử, đối với sự chiến thắng
Hạng Vơ và kiến lập Hán triều, Tiêu Hà
có nhiều công lớn, được phong là Tán
Hầu. Về sau, Tiêu Hà lại giúp Hán
Cao Tổ tiêu diệt các dị tính chư hầu
vương, như Hàn Tín, Trần Hy, Anh Bố. Tiêu Hà mất năm 193 trước
Công Nguyên. Tào
Tham 曹
參 : Tào Tham là đại thần
thời kỳ đầu nhà Tây Hán, người
Bái Huyện (nay thuộc tỉnh Giang Tô),từng là
viên quan coi ngục huyện Bái. Cuối đời
nhà Tần, Tào Tham theo Lưu Bang khởi nghĩa,
nhiều lần lập chiến công. Khi nhà Hán
kiến lập, Tào Tham được phong là B́nh
Dương Hầu, từng nhậm
tướng quố Tề chín năm, sau
lại giúp Hán Cao Tổ b́nh định Trần
Hy, Anh Bố cùng những dị tính chư hầu
vương. Đến thời Hán Huệ Đế,
lên thay Tiêu Hà ở chức Thừa Tướng,
nhưng tiếp tục giữ và không thay đổi
những chính sách qui định của Tiêu Hà, nên
đựơc xưng tụng là " Tiêu qui Hà
tuỳ". Tào Tham mất năm 190 trước
Công Nguyên. Hàn
Tín 韓
信
: Một
trong chư Hầu Vương thời Hán Sơ. Hàn
Tín người
Hoài Âm (nay thuộc tỉnh Giang Tô) .Lúc mới
đầu Hàn Tín theo Hạng Vơ, sau theo Lưu
Bang,được Bang phong làm Đại Tướng.
Trong cuộc chiến tranh Hán Sở, Lưu Bang dùng
kế sách của Hàn Tín, đánh chiếm Quan
Trung.Trong lúc Lưu
Bang cầm cự với Hạng Vơ ở Vinh Dương
và Thành Cao,th́ Tín tập kích hậu lộ phía
sau Hạng Vơ,phá vỡ được đất
Triệu,Tề, chiếm cứ vùng hạ du sông
Hoàng Hà, Hàn Tín được phong làm Tề Vương. Sau
đó ít lâu, Tín xuất quân hội hợp
với Lưu Bang
đánh diệt được Hạng Vơ ở
Cai Hạ (nay thuộc phía nam Linh Bích tỉnh An
Huy). Đến
khi nhà Hán thành lập, Hàn Tín được
cải phong là Sở Vương, sau bị người
vu cáo là làm phản, bị giáng làm Hoài Âm
Hầu.Sau lại bị vu cáo là cùng với
Trần Hy cấu kết làm phản ở Trường
An, rồi bị Lă hậu giết. Tín
là vị tướng lành giỏi cầm binh, và
tự xưng là “đa đa ích thiện”, và
từng viết ba thiên binh pháp, nay bị thất
lạc. Bành
Việt 彭
越: Bành
Việt là một chư hầu vương
thời đầu nhà Hán,tự là Trọng,người
Xương Ấp (nay thuộc Kim Hương
tỉnh Sơn Tây),thường câu cá ở đầm
Cự Dă Trạch.Cuối thời nhà Tần Bành
Việt tụ họp dân chúng rồi khởi nghĩa
đi theo Hạng Vũ. Khi Hạng Vũ đánh
nhau với Lưu Bang, Bành Việt đem ba vạn
binh về hàng Lưu Bang,
đánh chiếm đất Lương (nay thuộc
tỉnh Hà Nam), và tuyệt được chở
lương thực của Hạng Vũ,
ít lâu sau đem quân cùng Lưu Bang
hội binh ở
Cai Hạ (nay thuộc huyện Linh Bích tỉnh An
Huy) nhờ thế Lưu
Bang đánh diệt được Hạng Vu. Sau
khi nhà Hán được thành lập, Bành
Việt được phong là Lương Vương.
Lúc Lưu Bang đi đánh Trần Hy, muốn Bành
Việt cầm quân đi đánh, nhưng Bành
Việt cáo ốm không đi. Viên
quan Thái Bộc của Lương v́ thù oán đến
vu cáo với Lưu Bang là Việt làm phản,Lưu
Bang giết Bành Việt và chu di tam tộc của
Việt, rồi lóc thịt làm mắm để
chia cho các chư hầu để răn đe. Ngụy Tướng 魏
相 : Ngụy
Tướng là Đại Thần thời Tây Hán
tự là Nhược Ông, người Định
Đào (nay thuyộc huỵen Định Đào
tỉnh Sơn Đông), sau dời đến B́nh
Lăng ( thuộc Hàm Dương tỉnh Thiểm
Tây), được tiến cử Hiền Lương
làm huyện lệnh huyện Mậu Lăng, sau làm
Thái Thú Hà Nam. Nguy Tướng chủ trương
ức chế thế lực hào cường. Khi
Tuyên Đế lên ngôi, ông được bổ
làm Đại Tư Nông, rồi Ngự Sử
Đại Phu, kế đó làm Thừa Tướng,
phong la Cao B́nh Hầu, được ngươi
xung tụng ca tụng. Ngụy
Tướng mất năm 59 trước Công Nguyên. Bính Cát 丙
吉: Bính
Cát là đại
thần thời Tây Hán, tự là Thiếu Khanh, người
Lỗ Quốc (nay thuộc Khúc Ấp tỉnh Sơn
Tây), vốn là một viên lại ngục, sau thăng
Đ́nh Uư.Hán Tuyên Đế,co của Vệ Thái
Tử, cháu nội của Hán Vơ Đế, lúc
mới sinh bị hạ ngục v́ Vệ Thái
Tử có tội, Bính Cát thấy vậy đem ḷng
thương, bí mật tuyển trọn một người
nữ phạm trung hậu để nuôi dưỡng
Tuyên Đế. Sau Hán Tuyên Đế lên ngôi
được ban tước Quan Nội Hầu,
thay Ngụy Tướng làm Thừa Tướng,
gia phong Bác Dương Hầu.Bính Cát dùng người
không kể lỗi người ấy, biết khen
thưởng những tài năng cùng ưu điểm
của họ, người đương thời
khen Bính Cát là một vị Thừa Tướng
giỏi. Bính
Cát mất năm 55 trước Công Nguyên. Vệ Thanh 衛
青
: Vệ
Thanh là danh tướng nhà Tây Hán, tự là
Trọng Khanh, người B́nh Dương Hà Đông
(nay thuộc Lâm Phần tỉnh Sơn Tây ), em
của Vệ Hoàng Hậu. Vệ
Thanh vốn là gia nô của B́nh Dương Công Chúa,
sau được Hán Vơ Đế Trọng
dụng, làm quan đến Đại Tướng
Quân, phong Trường B́nh Hầu. Thời
kỳ đầu nhà Tây Hán, các quư tộc Hung Nô
liên tiếp quấy nhiễu biên thuỳ miền
bắc nhà Hán. Năm 127 trước Công Nguyên,
Vệ Thanh đem quân đánh bại được
Hung Nô và khống chế vùng Hà Bắc. Tổng
cộng bẩy lần, Vệ Thanh đánh
thắng Hung Nô và giải trừ được
sự Uy hiếp của Hung Nô đối với vương
triều nhà Hán. Vệ
Thanh mất năm 106 trước Công Nguyên. Hoắc Khứ Bệnh 藿
去 病 : Hoắc
Khứ Bệnh sinh năm 140 trước Công Nguyên,
là danh tướng thời Tây Hán người B́nh
Dương Hà Đông (nay thuộc Lâm Phần Sơn
Tây), làm quan đến Phiêu Kỵ Tương Quân,
phong Quán Quân Hầu. Năm 121 trước Công
Nguyên, Hoác Khứ Bệnh hai lần đánh
thắng quư tộc Hung Nô, khống chế
được vùng Hà Tây, mở thông đường
sang Tây Vực. Nam 123 trước Công Nguyên,
Hoắc Khứ Bệnh cùng Vệ Thanh lại
đánh bại Hung Nô, được Hán Vơ Đế
xây cất phủ đệ, nhưng Hoắc
Khứ Bệnh từ khước nói : "Chưa
diệt xong Hung Nô, th́ làm nhà để làm ǵ
". Hoắc
Khứ Bệnh sáu lần đánh Hung Nô
giải trừ được sự đe
doạ của Hung Nô đối vương
triều nhà Hán. Hoắc
Khứ bệnh mất năm 117 trước Công
Nguyên. Lư Quảng 李
廣
: Lư
Quảng là danh tướng nhà Tây Hán, người
Thành Kỷ Lũng Tây (nay thuộc Tàn An tỉnh
Cam Túc), ông là người thiện xạ.
Thời Hán Văn Đế, Lư Quảng từng
tham dự những cuộc chiến phản kích
sự xâm lăng của quư tộc Hung Nô,
được làm Vơ Kỵ Thường Thị.Vào
thời Hán Cảnh Đế và Hán Vơ Đế
làm Thái Thú các quận Lũng Tây và Bắc Địa.
Năm 134 trước Công Nguyên làm Vệ Uư, sau
đổi làm Thái Thú Hữu Bắc B́nh, Hung Nô
nhiều năm không dám quấy nhiễu, gọi
Quảng là Phi Tướng Quân. Năm 119 trước
Công Nguyên theo Đại Tướng Quân Vệ
Thanh đánh Hung Nô giữ tiên đạo bị
phạt, rồi tự tử chết. (1) Nguyên văn bài thơ
chữ Hán như sau : 滿
身 風 露 夜 茫 茫 一
片 山 光 與 水 光 鐵
甕 城 邊 人 玩 月 鬼
門 關 外 客 還 鄉 功
名 不 博 詩 千 首 生
死 何 殊 夢 一 場 賴
有 故 人 知 此 意 清
談 終 夕 據 籐 床 Măn
thân phong lộ dạ mang mang Nhất
phiến sơn quang dữ thuỷ quang Thiết
Úng Thành biên nhân ngoạn nguyệt Quỷ
Môn Quan ngoại khách hoàn hương Công
danh bất bác thi thiên thủ Sinh
tử hà thù mộng nhất trường Lại
hữu cố nhân tri thử ư Thanh
đạm chung tịch cứ đằng sàng ___________________________________________________________________________________________________ Cảm tưởng về thơ văn của anh Phạm Xuân Hy xin gởi về Japan_ob@yahoo.com |