|
VĨNH
CHÂU DĂ MIẾU KƯ 永
州 野 廟 記
Nguyên
tác : Tiễn Đăng Tân Thoại Ngoài cánh đồng
Vĩnh Châu có ngôi thần miếu, lưng dựa
vào núi, trước mặt có một ḍng sông. Sông
sâu và chảy gấp. Chung quanh cỏ hoang bát ngát
xanh ŕ. Đại thụ thâm u rậm rạp, chót
vót, che kín cả mặt trời, san sát đếm
không xuể. Thường
thường mưa gió vẫn từ thần
miếu nổi lên.V́ thế, người ta
sợ hăi, đều phải cung tế cung
phụng. Khách đi đường qua đó,
nhất định phải có tam
sinh lễ vật
đem vào cúng dưới điện, mới có
thể đi qua yên ổn được. Bằng
không, gió mưa th́nh ĺnh nổi lên. Rồi mây
đen kéo đến, trời đất tối
thui. Gang tấc không nh́n
rơ mặt nhau. Hành lư, phẩm vật, bỗng dưng
không cánh đều bay đâu mất biến. T́nh trạng
như thế đă xẩy ra từ mấy năm
nay rồi. Vào khoảng
niên hiệu Đại Đức
đời vua Thành Tông nhà
Nguyên, có người thư
sinh tên Tất Ứng Tường, nhân việc
phải đến Hành Châu, buộc đi qua
miếu đó, nhưng v́ túi rách không tiền, không
có lễ vật để vào cúng trong miếu
đó, đành chỉ kính cẩn vái lậy
thần miếu. Rồi đi. Sinh đi chưa
khỏi vài dặm, th́nh ĺnh nổi lên một
trận gió lớn, ào ào cát bay đá chạy, mây
đen sương mờ, từ đằng sau ùa
tới.Chàng ngoái đầu lại nh́n, thấy
binh lính mặc giáp trụ rất nhiều, có
đến hàng ngàn hàng vạn, đuổi theo
truy cản. Chàng tự nhủ, mệnh tất
tuyệt. B́nh thời, Sinh vốn quen tụng
niệm kinh "Ngọc Xu Kinh "
của đạo gia, nay t́nh
thế cấp bách, cứ vừa chạy vừa
niệm. Khoảnh khắc, mây tan gió ngừng,
trời đất sáng láng trở lại,
những kỵ binh đuổi theo truy cản chàng
đều biến đâu mất. Sinh may mắn
bảo toàn tính mệnh, tới được Hành
Sơn, đi qua núi
Chúc Dong Sơn, ghé vào Nam Sơn Từ,
nhớ
lại chuyện vừa
mới xẩy ra, bèn viết một tờ
trạng nói rơ sự việc, đốt đi
để bẩm vị thần trong từ đó. Đến
tối, Sinh nằm chiêm bao, thấy một viên
bổ khoái đến bắt chàng,
đưa chàng đi đến
một cung điện thật lớn. Chung quanh
thị vệ đứng la liệt, c̣n các
cấp quan lại xếp theo thứ bậc. Viên
bổ khoái dẫn Sinh đến dưới
thềm đ́nh. Chàng ngẩng đầu nh́n lên,
thấy trên điện
treo một chiếc rèm ngọc, bên trong rèm,
trải trướng gấm vàng, đèn đuốc
huy hoàng, sáng láng như ban ngày. Cảnh trí trông
trang trọng oai nghiêm, tĩnh mịch, không huyên náo Sinh nín
thở chờ lệnh. Lát
sau, một viên quan mặc áo đỏ, lưng
đeo giác đái, từ bên trong điện đi
ra, hô truyền mệnh lệnh : -Có
lệnh chỉ ban xuống, hỏi ngươi
muốn kiện tụng ai ? Sinh cúi
rạp ḿnh xuống đất, thưa : -Thân
con học tṛ nghèo, lại thêm ngu muội, nào
đâu có biết điều danh lợi mà xin, cũng
chẳng biết đến nhà cửa đất
đai chỗ nào mà t́m kiếm. Aó bố y, cơm
rau cỏ, an phận thủ kỷ, vả, cũng
chưa từng một ḿnh đến cửa công
bao giờ, thật chẳng biết trả lời
thế nào ! Viên
quan lại hỏi : -Thế
buổi sáng nay ngươi đầu cáo trạng
về việc ǵ ? Sinh
hồi tưởng lại, bấy giờ mới
rập đầu,bẩm : -Bẩm
con xin thưa, nhân con v́ nghèo khổ quá, phải
rời bỏ quê hương, đến nhờ
vả người khác. Đường đi Vĩnh
Châu, phải qua miếu thần, tiền độ
đường v́ đă tiêu hết, nên không có
lễ vật để vào tế miếu, đến
nỗi xúc phạm thần oai, th́nh ĺnh khởi gió
hưng mưa, cho giáp binh kỵ mă truy lùng, con
bối rối khốn cùng, té lên ngă xuống, cơ
hồ suưt bị bắt kịp. Trong lúc sợ hăi
nguy cấp, không nơi kêu cầu, nên đường
đột mạo phạm thánh linh, thật là
điều bất đắc dĩ. Viên
quan nghe xong đi vào bên trong, một lát đi ra, nói
: -Có
lệnh chỉ, cho thẩm tra đối chất ! Lập
tức viên quan cùng mấy tên giáp sĩ phi đằng
lên không. Lát sau trở về, áp giải một
ông già râu trắng toát, đội khăn đen,
y phục theo lối đạo gia, đến
bắt quỳ ở dười bệ thềm,
rồi tuyên đọc lệnh chỉ, cật
hỏi : -Ngươi
là thần một phương, được
mọi người cúng tế, tại sao lại dùng
vơ lực để reo hoạ và khủng bố
người ta, đ̣i hỏi trà lá lễ
lậy, bách hại người học tṛ kia,
đến nỗi suưt mất mạng. Tham lam ,độc
hại đến như thế, tội đó sao
thoát khỏi h́nh phạt ! Ông già
râu bạc, quỳ xuống vái, rồi thưa : -
Qủa thật tôi là thần giữ miếu hoang
ờ Vĩnh Châu, nhưng ngôi miếu hoang này
bị yêu măng chiếm cứ cả năm nay
rồi, tôi không đủ sức đối địch,
chức quyền bị mất đă lâu, việc
đ̣i hỏi chà lá, rượu thịt trước
đây, đều do loài yêu măng này làm ra, đâu
phải lỗi của tôi. Viên
quan lại hỏi : -Nếu
như thế, sao không chịu bẩm báo sớm ! Đáp
: -Loài
quái vật này sống trên đời đă lâu,
hưng yêu tác nghiệt, sức không ai địch
nổi. Các hồn ma ở xă miếu, ở gia
từ, ở hoang miếu, đều bị con yêu
này chèn ép. Thần long, hải sà, cũng bị nó
chỉ huy. Mỗi khi tôi muốn khiếu nại,
thưa gửi th́ bị nó cản trở, ngăn
chặn, cuối cùng không thể thực hiện
được. Hôm nay nếu không có lệnh
chỉ, lẽ nào tôi đến được
đây ! Bấy
giờ Sinh phủ phục ở dưới
thềm, th́ nghe trên điện truyền
xuống, sai viên quan và giáp sĩ đi điều
tra. Lại
nghe lăo già râu bạc thưa : -Loài
yêu nghiệt đă thành h́nh, trợ giúp nó
rất đông. Quan viên binh mă dù có đi, cũng
vô ích, trừ phi phái thần binh, mới bắt
được mà thôi. Sinh
thấy trên điện chấp nhận đề
nghị của lăo già râu bạc, ra lệnh cho
một viên thần tướng đem năm ngh́n
thần binh ra đi. Một lát sau, Sinh lại
thấy mấy chục tên quỷ tốt, dùng
một tấm ván lớn, khiêng
một cái thủ cấp trở về đặt
ở dưới thềm điện. Té ra, đó
là cái đầu của một rắn trắng,
to bằng cái ang, chứa được năm
thạch thóc, trên đầu rắn có cái mào
đỏ. Sau
đó, Sinh được viên quan ra lệnh
trở về nhà. Chàng vươn người
đứng dậy, th́ ra, vừa trải qua
một giấc chiêm bao. Khắp người
mồ hôi nhễ nhại. Ứơt đầm lưng
áo. Sau khi
Sinh hoàn tất công việc, lúc về, đi qua
chốn cũ, nhưng ngôi miếu hoang đó nay
đă biến đâu mất, không c̣n dấu tích
ǵ. Hỏi thăm thôn dân gần đó, có người
trả lời : -Đêm
nọ, vào khoảng sau canh ba, bỗng có sấm sét
nổi lên ầm ầm. Trong mưa gió chỉ nghe
những gươm giáo sát phạt giết nhau,
rất là kinh hồn sợ hăi, chẳng biết
chuyện ǵ. Đến khi trời sáng, tới nơi
coi, thấy ngôi miếu đó đă bị phá
huỷ tan tành, có một con bạch sà dài mấy
chục trượng bị giết chết
nằm ở dưới một lùm cây, đầu
bị chặt. C̣n lại, các loài độc xà,
phi xà, huỷ xà, chết vô chết, tử khí
tanh tưởi, lợm giọng, kéo đến nay
vẫn chưa hết. Sinh tính
toán, ngày hôm đó chính phù hợp với ngày
Sinh chiêm bao. Chàng
về nhà, một hôm giữa ban ngày,nhàn hạ
ngồi chơi, th́nh ĺnh có hai quỷ tốt
đến gặp chàng, nói : -Địa
phủ có lệnh triệu ngài xuống đối
chất một án kiện. Xong
cứ nắm vai chàng mà kéo đi. Xuống đến
nơi, Sinh thấy Diêm Vương ngồi trên
đại sảnh, dùng cũi sắt nhốt
một người đàn ông, mặc quần áo
trắng, đầu quấn khăng đỏ, trông
dáng người rất khôi ngô to lớn, đang
tự khai báo với Diêm Vương : -
Bẩm ngài, khi c̣n ở dương thế, con chưa
hề bị phạm một hạng tội nào, mà
bị tên học tṛ Tất Ứng Tường vu
cáo với thần núi Nam Nhạc, đến
nỗi thần binh xuống oai giáng phạt, toàn
tộc bị diệt, nhà cửa sào huyệt
bị tàn phá, huỷ hoại, thật sự quá
nhiều oan khổ. Sinh
nghe nói thế, biết rằng yêu sà v́ thù
hận vu hăm chàng, bèn tŕnh bầy cặn kẽ
những việc làm tổn nhân hại vật
của nó. Chàng và con yêu sà đối chất
nhau qua chiếc cũi sắt, lời qua tiếng
lại, hết sức kịch liệt, nhưng gă
yêu sà nhất định không nhận tội. Diêm
Vương liền sai lại thuộc viết văn
thư đến thần núi Hành Sơn và Thành Hoàng
ở Vĩnh Châu để nghiệm chứng.
Qủa nhiên, một lát sau được Hành Sơn
Phủ và Thành Hoàng Ty hồi đáp, phù hợp
đúng với những điều Sinh đă khai. Bấy
giờ, yêu sà đuối lư
mới chịu khuất phục. Từ
trên điện, Diêm vương giận dữ trách
cứ : -Nhà
ngươi khi sống thành yêu quái, chết c̣n
cả gan vu hăm người ta. Quân sĩ, mau áp
giải tên bạch y yêu sà này xuống địa
ngục, vĩnh viễn giam lại, không cho
trở lại dương thế nữa. Lập
tức con yêu sà bị mấy viên quỷ tốt
dẫn đi. Diêm Vương
lại ủy lạo Sinh : -Làm
phiền đến tiên sinh mà chẳng có ǵ để
báo đáp. Liền
sai lấy sổ bạ tịch có họ Tất ra
coi lại, phê bên dưới tên của Sinh tám
chữ : "
Trừ yêu khử hại duyên thọ nhất
kỷ". Sinh
lập tức vái tạ ơn, ra về. Khi
về đến cửa, tỉnh ra, th́ đang
gục đầu trên án thư mới ngủ
dậy. (
Dịch xong lúc 16giờ 06 ngày 31-8-2005) Vài
nét về tác giả . Cù Hựu (瞿
佑)
: Vĩnh
Châu Dă Miếu Kư ( Chép Truyện Miếu Hoang
Ở Cánh Đồng Vĩnh Châu) Cù Hựu tự là Tông Cát, biệt
hiệu là Tồn Trai người Tiền
Đường, nay thuộc Hàng Huyện tỉnh
Triết Giang. Ông sinh năm Chí Chính nguyên niên nhà Nguyên tức năm
1341.Hồi c̣n trẻ nổi tiếng là người
đa tài đa nghệ, giỏi thi thơ, nhưng
thường bất đắc chí. Đầu năm
Hồng Vơ đời Minh Thái Tổ, Cù Hựu
được lần lượt bổ nhậm làm
Huấn Đạo tại Nhân Hoà, Lâm An, Tuyên Dương,
rồi thăng làm Hữu Trưởng Sử trong
Chu Vương Phủ. Khoảng năm Vĩnh
Lạc đời Minh Thành Tổ, nhân làm thơ
bị tội, đầy đến huyện
Bảo An (nay là tỉnh Cam Túc) làm nhung thú,
trải qua mười năm, đến năm
Hồng Hy (tức năm 1425) đời vua Minh Tông
mới được xá, về làm gia sư cho
Anh Quốc Công ba năm, đến năm Tuyên
Đức nhị niên th́ mất, thọ tám mươi
bẩy tuổi. "Tiễn Đăng Tân Thoại"
được viết vào khoảng Hồng Vơ
thập nhất niên, tức 1378, gồm bốn
quyển, hai mươi
truyện.Phần lớn những truyện
trong Tiễn Đăng Tân Thoại đều
lấy ma quỷ quái dị, hôn nhân luyến ái, làm
đề tài phản ánh những hiện thực
xă hội hắc ám, hủ bại dưới
triều nhà Nguyên, cũng như
chống lại những điều vô lư
trong chế độ hôn nhân phong kiến cũ.
Nhưng Tiễn Đăng Tân Thoại lại
mạnh dạn tuyên dương tư tưởng
"Trung, Hiếu, Tiết , Nghĩa" và
những phong tục mê tín quỷ thần Ngoài Tiễn Đăng Tân Thoại,
được người đời truyền
tụng và khen là
có những ngôn từ hoa lệ, uỷ uyển như
"ôm thuư ấp hồng", ảnh hưởng
rất nhiều đối với tiểu
thuyết thuộc loại truyền kỳ của
hai triều Minh và Thanh, như Liêu Trai Chí
Dị Dạ Đàm Tuỳ Lục, Cù Hựu c̣n
để lại cho đời sau một số tác
phẩm như : - Hương Đài Tập - Du Nghệ Lục - Tồn Trai Loại Biên -Qui Điền Thi Thoại. -Vịnh
Vật Biên -Nhạc
Phủ Di Âm Vá
hàng chú thích của Phạm Xuân Hy : Tam Sinh 三牲: Thời
cổ, tại ba triều Hạ, Thương, Chu,
sử dụng ba loài súc vật là trâu, dê,
lợn (thỉ 豕), để cúng
tế, gọi tam sinh. Theo Khổng An Quốc chú
dẫn th́ ngưu,
dương, thỉ là tam sinh. Nhưng
về sau việc sử dụng tam sinh trâu, dê,
lợn, làm
tế phẩm, đối với những gia đ́nh
nghèo khó ít có điều kiện thi hành, nên
việc cúng tế trong dân gian được
sử dụng bằng ba súc vật khác là gà, cá
,lợn (trư 豬)
thay thế cho tam sinh trâu, dê, lợn. Theo
đạo gia, tam sinh có phần khác biệt, đó
là con hươu, con hoẵng, và con chương,
một loài giống như con hươu mà chân
nhỏ. Nguyên Triều 元朝 : Nguyên
là danh xưng của một triều đại
tại Trung Quốc. Năm
1206, lănh tụ của bộ tộc Mông Cổ là
Thành Cát Tư Hăn sau kiến lập Mông Cổ Hăn
Quốc, khuyếch trương thế lực
đến lưu vực sông Hoàng Hà.Từ Thành Cát
Tư Hăn đến thời Mông Ca Hăn, liên
tiếp diệt được các vương
triều Tây Liêu, Tây Hạ, Kim, Đại Lư,
rồi thành lập các cơ cấu hành chánh
ở Thổ Phiên, trực tiếp tiến hành
thống trị. Đến
năm 1271, Hốt Tất Liệt đặt
quốc hiệu là Nguyên.Đến năm 1279
Hốt Tát Liệt diệt được Nam
Tống, thống nhất toàn Quốc, định
đô ở Yên Kinh, sau đổi tên là Đại
Đô, nay là Bắc Kinh, dựng lên một đế
quốc rộng lớn. Đến
năm Chí Chính thập nhất niên, đời vua
Thuận Đế nhà Nguyên,tức năm 1351,
bạo phát cuộc nổi dậy của Hồng
Cân Quân ,do các lănh tụ của bốn chi phái do
Lưu Phúc Thông, rồi Qúach Tử Hưng, Từ
Thọ Huy, Vương Quyền, lợi dụng
Bạch Liên Giáo phát động, làm dao động
nhà Nguyên. Năm
1368, Chu Nguyên Chương phái đại tướng
Từ Đạt công chiếm Đại Đô,
lật đổ sự thống trị của nhà
Nguyên. Nhà
Nguyên kể từ Hốt Tất Liệt định
quốc hiệu năm 1271, trải qua 11 đời
vua, cộng 98 năm. Nguyên Thành Tông 元 成 宗 : Thành
Tông nhà Nguyên là ông vua thứ hai của Nguyên
triều, cháu đích tôn của Nguyên Thế
Tổ Hốt Tất Liệt, tên gọi Kỳ Ác
Ôn Thiết Mộc Nhĩ, con của Hoàng Thái
Tử Chân Kim, mẹ là Hoằng Cát Liệt
Thị, sinh năm 1265, lên ngôi năm 1294, có hai niên
hiệu là Nguyên Trinh và Đại Đức. Năm
1307, Nguyên Thành Tôn mất, chung niên 43 tuổi. Hành Sơn
衡 山: Hành Sơn là tên một
trong Ngũ Nhạc nổi tiếng của Trung
Quốc, thường gọi là Nam Nhạc,
nằm ở phía tây huyện Hành Sơn tỉnh
Hồ Nam, chu vi rộng 800 dặm, có 72 ngọn núi
lớn nhỏ.Nổi tiếng là nguy nga,rậm
rạp là các ngọn Chúc Dong, Thiên Trụ, Tử
Cái, Phù Dung, cao chót vót chọc trời,thác nước
như những giải lụa trắng xoá, bay phơi
phới. Tương Truyền, ngày xưa
vua Thuấn đi tuần phương nam và vua Vũ
trị thuỷ từng đặt chân đến
đây. Các đời vua sau, đều
đến đây để cử hành những
đại điển tế tự.Nổi
tiếng là sơn linh kỳ tú, bên trong núi có
những chùa miếu, nơi tu tŕ của giới
tăng lữ và đạo sĩ, và là nơi có
nhiều thắng cảnh,cổ tích, đă lưu
dấu chân của các tao nhân mặc khách đến
đây du lăm, như Chúc Thánh Tự, Nam Nhạc
Đại Miếu, Tàng Kinh Điện, Ma Kính
Đài, Hoàng Đ́nh Quan. Tương truyền
rằng ngọn Chúc Dong Phong là táng
địa của họ Chúc Dong Thị thời
viễn cổ. Từ trên đỉnh núi này
nh́n xuống, thấy la liệt vô số những
ḥn núi nhỏ, mây và núi như dao động,
được xem là chỗ đẹp nhất
để ngắm cảnh
mặc trời mọc, tưởng chừng
như từ dưới
biển đi lên. Trong núi c̣n đủ loại
kỳ hoa dị thảo, được Trung Hoa coi
là kho tàng những bảo vật. Đời Đường,
đầu năm Khai Nguyên Tư Mă Thừa Trinh
đến đây tu đạo, lập ra Bạch
Vân Am.Đời Ngũ Đại, có Nhiếp Sư
Đạo cũng đến đây tu hành. Bố
y 布衣 : Y phục được may bằng vải ma bố
(vải gai) hoặc bằng cát bố (vải
đay) gọi là bố y.Nước Tàu thời
cổ ,trước khi có việc chuyển
nhập bông vải vào,vật liệu vật
phẩm làm quần áo là gai,đay,và tơ .Thông
thường th́ chỉ có quư tộc và quan viên
được mặc y phục dệt bằng tơ,c̣n
giới b́nh dân th́ mặc
quần áo bằng vải gai,vải đay,gọi
chung là bố y.V́ thế,bố y trở thành
từ ngữ
chỉ người b́nh dân. Lư Tư ,trong Sử Kư của Tư
Mă Thiên, bị gọi một cách khinh
thị là ''Thượng Sái bố y,lư hạng
chi kiềm thủ 上
蔡 布 衣 閭 巷之 黔
首'' -dân áo
vải đất Thượng Sái,kẻ đầu
đen trong xóm ngơ- tức kẻ b́nh dân.Sau Lư Tư
làm thừa tướng nước Tần. Bố y,c̣n chỉ người học tṛ lúc tay
trắng nghèo,chưa hiển đạt. Diêm Vương
閻王 Diêm Vương là do dịch âm từ chữ
phạnYamaraja mà ra,cùng gọi là "Diêm La Vương","Diêm
Ma Vương",hay "Diêm La".C̣n dịch ư
th́ "diêm" có nghĩa là "trói
buộc",trói buộc tội nhân. Theo thần thoại cổ Ân Độ,th́ Diêm Vương
là vị vua quản lư cơi âm,Phật Giáo duyên
dụng theo thần thoại
của Ân Độ,coi Diêm Vương là Ma
Vương quản lư địa ngục. Trong phong tục của Trung Quốc,Diêm Vương
được coi là vị vua
của cơi âm.Người ta sau khi
chết,phải đến cơi âm để
chịu thẩm phán của Diêm Vương,nếu
lúc sinh tiền làm điều lành,việc
thiện,th́ lên thiên đường hưởng
phú quư,c̣n làm điều ác th́ phải xuống
địa ngục,chịu h́nh phạt. Phật Giáo Trung
Quốc cho rằng có Thập Điện Diêm La, là
từ ngữ dùng để chỉ mười
vị Diêm Vương trông coi địa
ngục,thuyết này có từ cuối đời
Đường.Mười vị Diêm Vương
đó là :1-Tần Quảng Vương.2-Sơ
Giang Vương.3-Tống Đế Vương.4-Ngũ
Quan Vương.-5 Diêm La Vương.6-Biến Thành
Vương.7-Thái Sơn Vương.8-B́nh Đẳng
Vương.9-Đô Thị Vương.10-Ngũ
Đạo Chuyển Luân Vương. Mười vị này phân ra cư trú ở mười
điện dưới địa ngục,nên
được gọi là Thập Điện Diêm
Vương. Thành
Hoàng 城 隍 : Theo thần thoại đời
xưa của người Trung Quốc, th́ Thành Hoàng
là vị thần trông coi bảo hộ thành tŕ.
Sau được Đạo Giáo tin thờ cúng
tế. Ngôi miếu Thành Hoàng
được kiến lập sớm nhất là vào
năm Xích Ô nhị niên nhà Ngô đờiTam
Quốc (tức năm 239). Các triều đại
kể từ nhà Đường trở về sau,
các quận, huyện đều có sự cúng
tế Thành Hoàng.Trương Thuyết, Hàn Dũ,
Đỗ Mục đều từng làm văn
tế Thành Hoàng. Từ sau đời nhà Tống
trở đi, việc cúng tế Thành Hoàng
được phổ biến trên toàn
quốc.Ở Tô Châu thờ Xuân Thân Quân làm Thành
Hoàng.Ở Hàng Châu
thờ Văn Thiên Tường. Ở Thượng
Hải thờ Tần Duệ Bá. Thành Hoàng thường là
những người có công với đương
địa. Năm 934 nhà Hậu
Đường phong "vương" cho Thành
Hoàng.Và Minh Thái Tổ cũng từng phong "đế"
cho Thành Hoàng ở
kinh đô. Đạo Giáo tôn Thành Hoàng
là vị thần "Trừ gian diệt ác,
bảo quốc an bang", có thể đáp
ứng những cầu khẩn của con người.
Trời hạn hán th́ gíang mưa, trời lụt
lạo th́ cho nắng, để bảo hộ mùa
màng phong phú, nhân dân xung túc.Đạo Gíao c̣n coi
Thàng Hoàng là vị thần quản lănh các vong
hồn, nên đạo sĩ có thể lập
đàn siêu độ vong hồn nhưng phải
lập văn báo trước; mới gọi
vong hồn đến đàn được. Trừ
yêu khử hại duyên thọ nhất kỷ 除 妖
去
害
延
壽
一
紀
: Có công diệt trừ yêu quái,
trừ hại cho dân, cho thọ thêm một kỷ
nưă.(Một kỷ là 12 năm.) ________________________________________________________________
Cảm tưởng về thơ văn của anh Phạm Xuân Hy xin gởi về pxhy@erct.com |