|
YỂU
NƯƠNG TÁI THẾ
窅
娘
再
世 Nguyên
tác
: Ṭng
Ẩn Mạn Lục
Một ngọn đèn xanh lửa đóm,
hắt hiu tranh sáng với loài ma,
Liễu Tuyền Cư Sĩ
BỒ TÙNG LINH Chu
Vị Hoàng tự là Bích Thần, hiệu là
Trọng Du, người Kim Lăng, vốn ḍng dơi
thế gia đại tộc, nhưng đến
đời Hoàng th́ gia đ́nh bắt đầu
sui vi sa sút, trở thành b́nh dân. Nhưng Hoàng
vẫn tự coi là con nhà gia thế, thường
tỏ ra ngạo mạn, khinh đời. Gặp
lúc giặc cờ đỏ Hồng Tú Toàn
nổi dậy phản loạn, vây hăm Kim Lăng,
rồi biến nơi đó thành kinh đô, làm thành
hang ổ của giặc, trong gần mười
ba năm. Ngôi
nhà của gia đ́nh Sinh, vốn rất to lớn
rộng răi, từng bị một viên tướng
của Hồng Tú Toàn chiếm làm chỗ cư trú.
Đến
khi giặc bị quét sạch, quan quân tiến vào
Kim Lăng, ngôi nhà cũ ấy lại trở thành
chỗ ở của quan quân. Bấy
giờ, những người trong gia đ́nh Sinh
phải bỏ xứ phiêu linh tứ tán. Riêng chàng, một thân một ḿnh, bôn đào đến
măi vùng Trấn Nam xa xôi. Mười năm sau, khi Sinh trở về Kim Lăng,
th́ ngôi nhà bị bỏ hoang, không ai ở,
cửa đóng then cài đă lâu, nên Sinh phải
nhờ người cắt bỏ tạp thảo,
gai góc, gạch ngói, quét dọn bụi bặm cho
sạch sẽ, rồi thuê thợ tô vôi làm
mới lại. Nhưng
nhà rộng người thưa, cứ đêm
đêm, thường thấy lân tinh đom đóm
lập ḷe , bay lên bay xuống.Từ những ngơ
ngách tối tăm, hay những góc nhà vắng
vẻ, luôn vẳng nghe có tiếng chồn kêu cú
hú, khiến gia nhân sợ hăi không ngủ yên
được. Nhưng riêng Sinh chẳng sợ hăi ǵ. Một đêm, chàng vừa chợt tỉnh dậy, th́nh ĺnh cảm thấy có người luồn tay vào trong chăn của ḿnh, nghe giá băng lạnh lẽo, bừng mắt ra nh́n, té ra là một con a hoàn đi chân đất. Mặt mày nhem nhuốc, xấu xa, bèn quát đuổi đi : -Tay lạnh như tay ma, dám đến mó vào người ta, ngươi không biết tự ngượng à ? Con a hoàn đỏ mặt, xấu hổ, lẳng lặng tự ư thoái lui, ra đến ngoài cửa, miệng khe khẽ lẩm bẩm : -Đáng lẽ để cho cô ta tự đến, xem anh chàng có c̣n gối cao ngủ yên không ! Sinh biết là bị ma trêu, tuy thế, cũng chẳng sợ ǵ . Đứa a hoàn đi khỏi một lúc, Sinh thấy có người vén rèm bước vào, nói : -Chồng con đứa nào, dám cả gan dọa nạt đứa tỳ nữ dại khờ nhà người ta vậy ? Sinh nh́n người mới đến. Th́ ra là một nữ lang, tuổi khoảng mười bẩy mười tám. Đôi lông mày vừa cong vừa đen, tú lệ như mày ngài. Mái tóc búi cao tṛn ở trên đỉnh đầu, đẹp như chim phụng. Sinh t́m áo quần để mặc, tính đứng dậy, th́ nữ lang đă đến trước giường, cản lại, rồi ngồi ghé xuống bên cạnh, nói : -Trời lạnh như thế này, chi bằng quấn chăn, tựa gối, đối diện nhau mà tán gẫu ! Sinh hỏi : -Nửa đêm khuya vắng, ngoài trời tuyết đổ, sao nàng lại lặn lội giá rét mà đến đây ? Nữ lang mắt rươm ruớm nước mắt, đáp : -Vừa rồi căi nhau với người d́, nên tức giận bỏ nhà ra đi. Bụng c̣n đang hoang mang, lo không biết đêm nay ngủ chỗ nào, th́ vừa lúc đi qua nhà chàng, thấy khe cửa c̣n le lói ánh đèn, biết là chàng chưa ngủ, nên vào quấy quả một chút. Lại hỏi : -Cái con a hoàn xấu xí vừa rồi có phải tay chân của nàng đấy không ? Nữ lang trả lời : -Đó là đứa đầu bếp, lo việc cơm nước cho người d́ của thiếp đấy mà! Khi hỏi đến tính danh, tịch quán, th́ nữ lang tự giới : -Thiếp họ Phùng, tự là Hương Lân, người gốc Dương Châu, song thân đều đă qua đời cả rồi, v́ thế phải đến sống nhờ ở nhà người d́. Tối qua người chú dượng xuống xóm Tầm Dương, thiếp lấy lời phải khuyên bảo người d́, lại bị người d́ lăng nhục, v́ thế mà bỏ nhà ra đi . Sinh gan hỏi đầu đuôi. Đáp : -Truyện pḥng the khuê các, chẳng đáng kể cho chàng nghe làm ǵ ! Hai người lan man truyện tṛ hồi lâu, rồi cùng bông lơn hài hước.Lát sau, Sinh lần tay vào đôi g̣ bồng đảo của nàng, thấy trơn nhẵn, tṛn trịa, đầy đặn, mà mềm mại khác hẳn những cô gái khác. Bèn đùa: -Đây chính là ngọn đậu khấu mới nhú vào đầu tháng hai ! Nữ lang đỏ bừng mặt, như có vẻ không cầm được ḷng. Sinh
lại bảo : -Đêm
nay khanh không có chỗ về, chi bằng ở
lại đây, cho ta khỏi cảnh gối lẻ
chăn đơn, bớt cô tịch. Nói
rồi thay nàng cởi bỏ giây quần, yếm
thắm, hài vớ. Nữ lang
đẩy ra, không chịu.Sinh càng ghẹo thêm. Cuối cùng chàng nắm được chân nữ
lang, thoát được đôi hài của nàng ra.
Ngắm
nghía , thấy mũi hài nhỏ, nhọn như mũi
trủy thủ, c̣n đế hài được làm
bằng một thứ gỗ thơm, điêu
khắc rất là tinh sảo, bên trong để
mạt sạ hương, mùi thơm nhuốm
đầy tay, khiến Sinh tâm thần mê mẩn,
tiêu hồn. Đêm
đó, Sinh cùng nữ lang yến nỉ , oanh non,
tỉ tê tâm sự, tận t́nh mây mưa như điên, mặc cho trăng tà ḍm ngoài song cửa.
Rồi
gối đầu tay nhau mà ngủ, măi cho đến
lúc mặt trời đă lên cao, lúc nào không
biết. Nữ
lang dậy trước, đánh thức Sinh, nói: -Gớm
! Ngủ quên cả trời sáng. Nói
xong, lấy quần áo mặc vào người,
hẹn Sinh buổi tối lại đến. Sinh không chịu, nắm vai nàng níu lại, không cho
đi.Từ đấy, nữ lang ngụ hẳn
tại nhà Sinh, trông nom cơm nước, thay Sinh
mua bán chi thu.
Nghiễm
nhiên như vợ chồng. Sinh
vốn chưa lấy vợ, bấy giờ bèn
đặt một bữa tiệc thịnh
soạn, mời khắp họ hàng, bè bạn
đến dự, rồi bảo nữ lang ăn
mặc hoa lệ rực rỡ, đi ra chào khách. Khách khứa ai cũng tấm tắc khen nàng kiều
diễm, đẹp như tiên nữ. Ở
được ít lâu, một hôm giữa nửa
đêm, Sinh thấy nàng nức nở sụt sùi,
lấy làm kinh ngạc, cật hỏi duyên cớ. Nàng
đáp : -Hôm
nay, thiếp đứng chơi ngoài cửa, th́
con nữ t́ ngày hôm trước đi qua, nó
thấy thiếp, đột nhiên tiến đến
hỏi thăm thiếp, báo cho thiếp là người
d́ của thiếp t́m thiếp đă lâu, nay đă
biết nơi chỗ thiếp ở, sớm
chầy th́ cũng đến đây bắt
về, thiếp ngại v́ thế mà sinh ra
kiện tụng. Sinh
nói : -Truyện
đó không hề ǵ !
Khanh không
c̣n cha mẹ, thân do ḿnh làm chủ, dù có ăn
ở nhà người d́, nhưng đâu phải bà
ấy đă nuôi khanh từ bé cho đến
lớn đâu. Giả
sử có kiện cáo, cũng chẳng hợp lư. Từ lúc khanh đến nhà ta, ta đă sớm lo
liệu trước rồi.
Có
sẵn người mai mối làm chứng, và giá
thú làm bằng. Dẫu người d́ của khanh có một trăm lưỡi,
cũng khó mà biện bác nổi. Nữ lang nói : -Tuy rằng như thế, nhưng sớm lánh đi th́ hay hơn.nay thiếp chỉ nhắc đến tên d́ ấy mà ḷng đă sợ, huống chi là gặp mặt. Thiếp có người chú làm quan ở Vơ Xương, ḿnh đến đó nương nhờ chăng ? Sinh vốn tính ham thích viễn du, nay nghe nàng nói thế, bè nhận lời, rồi sắm sửa hành trang lập tức lên đường ngay. Chừng đến Tô Châu, Sinh buộc thuyền đậu ở ngoài cửa Kim Sương Môn.Ban đêm, trên không trăng vừa mới mọc, sáng vằng vặc.Nữ lang dựa bên sông cửa, chăm chú nh́n về phía xa.Chỉ thấy mây nước tiếp liên trên dưới một mầu.Một chốc, có một chiếc thuyền lướt sóng thừa phong chèo đến, đậu sát gần thuyền của Sinh.Rồi có người đưa danh thiếp sang, muốn được gặp Sinh.Chàng thấy lạc khoản đề tên là “ Lư Trùng Quang”, bụng lấy làm lạ, v́ chàng không hề quen biết ǵ người này, tại sao lại gửi danh thiếp cho chàng thế này.Sinh tính từ tạ. Nhưng khách đă ngang nhiên bước lên thuyền, đi thẳng vào trong khoang. Nữ lang vội vă lẩn vào phía sau. Khách
chắp tay hướng Sinh hành lễ. Chàng
thấy khách ḿnh khoác áo da điêu, đầu
đội mũ da chồn, phục sức hết
sức hoa lệ, sang trọng.
Biết
không phải người thường.
Bèn
mời ngồi cùng nhau đàm đạo.
Khách
tỏ ra người học rộng hiểu
nhiều, khi bàn luận văn thơ th́ dẫn
cổ trưng kim, phân tích ngọn nguồn, càng
khiến Sinh thêm bội phục sự uyên bác
của khách. Hai
người truyện văn măi cho đến lúc
đuốc tàn, trời gần sáng, khách mới
từ giă ra về. Ngày
hôm sau, bỗng gió to mưa lớn, thuyền bè
đều phải đậu lại, không đi
được, Sinh bèn sang thuyền của khách
để đáp lễ.
Khách
thấy Sinh đến, tỏ ra rất mừng, nói: -Mưa
to gió lớn như thế này, được
huynh quá bộ đến chơi, thật cũng
đỡ tịch mịch ! Rồi
sai bầy tiệc khoản đăi.
Sinh
thấy đồ ăn thức nhắm đều
là những thứ sơn trân hải vị,
lạ lùng, hiếm quư.
Trong lúc
ăn, khách bỗng nhắc đến những
sự hưng vong của các triều trước,
miệng giảng tay khua, như đích thân
mục kích sự trị loạn từ thời Ngũ
Đại. Rượu
được vài tuần, khách truyền gọi
bọn ca nữ ra hát làm vui trợ hứng, và
bảo với Sinh rằng : -Rượu
mà cứ uống t́ t́ th́ không thú, không phải
cách đăi bạn quư ! Khách
nói xong, Sinh đă thấy một bọn ba bốn
ca nữ đi ra. Cô nào cũng
mắt xanh, răng trắng, đều thuộc
loại hương sắc xinh đẹp.Riêng cô
đi cuối cùng, ôm đàn t́ bà, th́ diễm
lệ hơn cả. Họ cùng nhau cất tiếng đồng ca. Thanh âm cao vút như hành vân lưu thủy.
Lại
có lúc ṛn ră như tiếng xé lụa.
Sau đó,
th́ chuyển sang độc tấu t́ bà. Tiếng
đàn du dương lên xuống, lúc trầm lúc
bổng, bi ai quyến luyến, khiến người
nghe cũng hi hu không cầm được lệ. Khách
bảo với Sinh : -Đây
là khúc “Niệm gia sơn phá”,
nhắc lại truyện cũ mà nát ruột
đau ḷng ! Sinh
hỏi : -Đệ
nghe nói khúc hát này do Nam Đường Hậu
Chủ sáng tác, các ca nữ của huynh v́ sao
lại học được ? Khách
đáp : -Đệ
nói ra, e làm huynh sợ ! Đệ đây chính là
Nam Đường Hậu Chủ Lư Dục.
Tuy
chết đă cả ngàn năm, mà hồn phách chưa
tan, nên vẫn thường xuống rong chơi
trần thế, cho tiêu hết mối hờn
uất trong tim. Rồi
lấy tay chỉ vào người cơ thiếp
ngồi cuối, giải thích : -Cô
này là cung nữ Lưu Châu, thiên tính rất thông
minh, được đệ yêu quư lắm ! Rồi
lại chỉ người cơ thiếp mặc
áo tím, nói: -C̣n
đây là Bảo Nghĩa Hoàng A Yêu, cùng bị
bắt đưa về miền Bắc chung
với đệ, rồi chết ở Đại
Lương, đến nay nghĩ lại, ḷng c̣n
thương tiếc. Sinh
tử tế nh́n kỹ, thấy nàng có sắc
đẹp kinh hồn. Cử
chỉ lại phong lưu tao nhă. Dung mạo
diễm lệ.
Đôi
mắt long lanh như hàm tiếu, đúng là
một tuyệt thế giai nhân. Sau
đó, khách
lại giới thiệu đến hai người
cơ thiếp khác, ngồi ở mé ngoài : -C̣n
đây là Thu Thủy và Khánh Nô. Lúc
đó, Sinh nghe có tiếng ca nữ thổi bài
“Thủy Long Ngâm”. Âm thanh bay
bổng lên không trung, nghe thánh thót, du dương,
tựa hồ như làm cho trăng mờ mây đọng. Khách
nói : -Đó
chính là những giọt châu của nhà họ
Kiều đấy ! Sinh
hỏi : -Nghe
đồn Lư huynh c̣n có người mỹ nữ
sủng ái tên là Yểu Nương, nay ở
đâu ? Đáp
: -Nàng
nay đă xuống cơi trần, làm vợ huynh để
trả cái nghiệt duyên phong lưu năm trăm
năm trước, nên dẫu là người yêu
dấu cũ của đệ, cũng không
tiện gọi nàng ra đây, e nẩy sinh đố
kỵ. Sinh
nghe lời khách nói thế, ḷng cảm thấy ngượng
nghịu, bất an. Nhưng khách đă cười, bảo : -Giang
sơn c̣n chẳng giữ nổi, huống hồ
là những cơ thiếp ? Bất quá, Yểu Nương
nay thuộc về huynh cũng chỉ là tạm
thời, chứ không phải việc trường
cửu. Xin huynh hăy yêu thương nàng, đừng để
cho thời gian đẹp đẽ trôi đi
mất. Nói
xong, sai Lưu Châu rót rượu cho Sinh, rồi
tiếp : -Mời
huynh cạn hết chén này, xin mừng huynh đă
được "thiên cổ mỹ nhân", người
đẹp ngàn năm cũ Sinh
nâng chén uống một hơi cạn. Lần
lượt sau đó, từ Bảo Nghĩa
trở xuống, các nàng cơ thiếp của
Hậu Chủ, luân lưu rót rượu mời
Sinh.
Chàng
đều không từ chối. Sinh
hỏi khách : -Nghe
đồn Bảo Nghĩa có tài thư pháp, đạt
đến chỗ tuyệt diệu của họ
Chung, họ Vương, chuyên lo việc văn pḥng
tứ bảo, chẳng hay đệ có thể thưởng
thức cái tài đó của nàng chăng ? Rồi
lấy ra một tấm lụa mộc để
Bảo Nghĩa viết chữ. Khách sai
thị nữ mang nghiên mực, bút lông ra. Bảo Nghĩa ngồi đối diện với Sinh,
vung tay múa bút, khoảnh khắc chữ viết
đầy trên bức lụa, sau đó dùng
ấn ngọc in lên một nét son hổng tươi
rói. Sinh
ngồi uống một mạch từ giờ
ngọ đến giờ dậu, chừng cũng
đă có vẻ hơi túy lúy, nhân sợ thất
lễ, khước từ không uống thêm
nữa. Khách
bèn bảo Lưu Châu ca tiễn hành.
Tiếng
ca êm ái dịu dàng, lời lời uyển
chuyển, dư âm quấn quưt xoay vần bất
tuyệt. Khách
giải thích cho Sinh : -Hai
khúc hát này do Chiêu Huệ Hoàng
Hậu sáng tác, tên gọi là "Yêu Túy Vũ
" và "Hận Lai Tŕ ", may nhờ có Lưu
Châu thuộc ḷng, bằng không chỉ có trên thiên
đ́nh, đâu c̣n được lưu
truyền chốn nhân gian nữa. Nói
xong, khách nắm tay Sinh để từ biệt, nói: -Từ
đây u minh hai nẻo, không biết bao giờ
mới lại gặp lại nhau, xin huynh chớ
đem chuyện này mà viết thành truyện, e làm
người nghe kinh hăi. Rồi
sai người tiễn Sinh xuống thuyền,
gửi theo hai cái rương để tặng
Yểu Nương, lại dặn ḍ : -Nhớ
nói với Yểu Nương hăy phục thị
huynh cho tử tế, đừng hoài niệm ǵ
đến đệ nữa. Tặng vật trong hai rương này tuy nhỏ bé, nhưng
đủ để sống suốt đời không
hết. Cả
năm nàng cơ thiếp của khách cũng đều
đem tặng vật ra cho, và ân cần gửi
lời thăm hỏi đến Yểu Nương. Lúc
Sinh về đến thuyền của ḿnh th́
chiếc thuyền của khách cũng vội vă
khởi hành.
Mái chèo
rẽ sóng như phi.
Chớp
mắt không c̣n thấy h́nh tích chi nữa. Sinh
đem truyện kỳ dị vừa gặp tường
tận thuật lại cho Yểu Nương nghe.Nàng
cảm thấy mơ hồ như từ một
kiếp xa xôi nào khác, lại c̣n trách Sinh đặt
điều bịa chuyện để đánh
lừa nàng. Sinh
bảo : -Lời
nói c̣n có thể bịa được, chứ
những tặng phẩm này đâu có thể
ngụy tạo ra được ! Rồi
mở rương ra coi.Thấy trân châu bảo
vật chất đầy, chẳng biết
gọi tên là ǵ. Sinh
bèn đem một vài vật đến một
tiệm kim hoàn ở
cổng Ngô Môn bán
được ngàn lạng. Lúc
hai người đến Hán Khẩu, gặp
dịp một viên kinh quan trong triều t́m mua
một viên ngọc lớn, đă từng đến
tận Quỳnh Đảo Tân Châu mà không mua
được. Sinh
đem ngọc ra cho coi.Viên kinh quan ngạc nhiên
sửng sốt khen thầm, liền bỏ năm
vạn tiền ra mua.Tuy thế, tặng vật
của khách cho Sinh cất dấu vẫn c̣n
nhiều. Chàng đem một số tiền lớn đến Hán
Khẩu thuê nhà cửa và mở tiệm buôn bán
ở nơi thị tứ kiếm lời. Sắp xếp nhà cửa xong xuôi, Sinh mới đến
Vơ xương để t́m người chú
của Yểu Nương, nhưng người chú
của nàng mấy hôm trước đó v́
việc công đă đi Dự Chương
rồi. Từ khi,
Sinh bỏ nghiệp nho để làm thương
mại, buôn bán lời một thành ba, trở nên
giầu sang sung túc, ăn uống hưởng
thụ ngang với bậc công hầu.
Nữ t́,
nam bộc thường đầy nhà.
Sinh
lại đem tiền đến Tô Châu mua bốn
người t́ nữ nữa, đều thuộc
hạng nhan sắc diễm tuyệt về nhà
nhờ nhạc sư truyền dậy ca hát, và sáng
chiều học thêm chữ nghĩa, v́ thế
họ hiểu thêm về âm luật, kinh sử. Yểu
Nương vốn biết chữ, nay lại
biết ngâm thơ làm phú, cùng chàng xướng
họa, khiến Sinh tâm măn ư túc, tự nhủ : -Bây
giờ ta mới thực hiện được
nguyện ước ngày xưa, thật là không
ngờ.Tuy thế, ngôi nhà cũ không thể không
tu sửa, để sau này về già c̣n có
chỗ an dưỡng. Rồi
sai một người nô bộc tài giỏi mang
tiền về Kim Lăng để sửa lại
ngôi nhà cũ cho thật to lớn. Một
hôm, Sinh đến ngao du ở Hoàng Hạc Lâu,
đi mỏi chân, bèn ngồi xuống một hiên
đá nghỉ ngơi, thấy trước mặt
có một thiếu phụ quư phái , khoảng
bốn chục tuổi, ngồi trong một
chiếc kiệu đi tới.Thiếu phụ trông
vừa xinh tươi vừa phong lưu văn nhă,
đẹp chẳng kém chi nàng ái
phi họ Từ của
Lương Vũ Đế.
Đằng
sau, lại có đám a hoàn theo hầu.Trong đó,
Sinh thấy có cả đứa nữ t́ xấu xí
ngày trước.
Nó dường
như cũng nhận ra chàng, nên đến bên người
thiếu phụ ghé tai th́ thào mấy
lời.Thiếu phụ tiến đến trước
mặt Sinh, vén áo nghiêng ḿnh thi lễ, nói : -Chàng
là rể bên ngoại nhà ta, ngày trước
lấy cháu gái ta, sao không cho người mai
mối đến hỏi, nhà cửa ở đâu,
ta có thể ghé thăm cho biết được
chăng ? Sinh
nghe hỏi, ḷng cảm thấy ngượng ngùng,
không biết trả lời ra sao, th́ thiếu
phụ đă sai bộc ṭng mang kiệu đến,
cùng Sinh đồng hành. Lại
bảo với Sinh : -Tệ
xá cũng gần đây thôi, xin mời chàng ghé
thăm trước, sau này họ hàng qua lại, cũng
dễ nhận ra cửa nẻo. Đi
chừng hơn nửa dậm, th́ phu kiệu
dừng lại.
Sinh
thấy nhà cửa nguy nga.Rơ ra là thế gia đại
tộc.Bên trong cửa có bốn năm người
đàn ông đứng sẵn để chào đón
khách, Sinh bước lên đại đường
cùng thiếu phụ tương kiến.
Chàng
cung kính lấy hàng tiểu bối mà hành lễ. Thiếu
phụ dẫn chàng vào trong nội thất,
rồi sai t́ nữ gọi người con gái là Tú
Cô ra.
Khoảnh
khắc, nghe có tiếng bội ngọc leng keng. Rồi mùi
sạ lan thơm lừng xông vào mũi. Một người con gái dáng đẹp như
ngọc, tuổi khoảng hai tám, bước đến
bên cạnh Sinh. Người
thiếu phụ bảo : -Đây
là con gái ta, hai người có thể gọi nhau
bằng anh em cũng được ! Sinh
liếc mắt nh́n, thấy hoa nhường
nguyệt thẹn, tuyệt thế giai nhân.Sau đấy,
thiếu phụ sai bầy tiệc khoản đăi
Sinh.Chàng được cả hai mẹ con song song
bồi tọa, lần lượt rót rượu
khuyên mời.
Chàng cũng
tận t́nh đánh chén no say. Người
con gái đưa sóng mắt như nước
hồ thu, liếc nh́n Sinh rồi dùng những ngón tay thon nhỏ của nàng véo
vào tai chàng nói đùa : -Này
! Tớ mời mà không uống th́ tớ đổ
rượu cho đấy . Sinh
mỗi lúc mỗi cảm thấy thần hồn
điên đảo, bất giác say mèm, rồi
nằm gục xuống tràng kỷ.
Măi cho
tới lúc trời tối lờ mờ mới
tỉnh lại.Chàng thấy gió lạnh như kim
châm, sương rơi đầy đất, bóng
trăng ch́m bên vách núi.Trong nội thất,
cả người lẫn vật đều không
thấy đâu, c̣n chàng, té ra đang nằm trên
một nấm mồ hoang, mới biết là
gặp ma, bèn thất thểu tập tễnh
trở về nhà. Chàng
bước vào trong buồng t́m Yểu Nương,
nhưng nàng cũng biến đâu mất, chỉ
thấy trên bàn có một lá thư từ giă. Sinh
buồn chán đến phát cuồng, xuống tóc,
bỏ đi vào núi . Rốt
cuộc, chẳng ai biết cuộc đời Sinh
sau này ra sao cả. ___________________________________________________________________________ Vài
hàng về tác giả
: Vương
Thao (王 韜) Vương
Thao (1828-1878) tự là Trọng Thao, hiệu là Thiên
Nam Độn Tẩu, người Trường Châu
tỉnh Giang Tô, là
học giả và nhà văn thời Thanh Mạt.Năm
18 tuổi ông đỗ tú tài, sau đo thi
nhiều lần không đậu, ông bèn bỏ thi
cử.Năm 22 tuổi , cha ông qua đời, ông
đến Thượng Hải làm trong Mặc
Hải Thư Quán với một người Anh
trong ba chục năm.Nhân thế đươc
tiếp xúc rộng răi với các tư tưởng
Tây phương.
Khi
xẩy ra cuộc nổi dậy của Thái B́nh
Thiên Quốc, ông từng nhiều lần viết
thư cho nhà đương cuộc Thanh triều
hiến phương lược « b́nh tặc ».
Năm
1862, ông về Tô Châu thăm mẹ bịnh,
rồi đổi tên là Hoàng Uyển, đề
nghị với quân đội Thái B́nh Thiên
Quốc mượn thế lực ngoại
quốc để mưu đồ trung nguyên .Khi
quân Thanh chiếm Tô Châu, t́m được
bức thư kiến nghị ấy của ông, ghép
ông vào tội thông phỉ và ra lệnh bắt,
may nhờ người Anh giúp ông trốn
được ra Hương Cảng. Sau
đó theo người Anh sang Anh Quốc, phiên
dịch các thư tịch cổ điển,
nhờ đó ông có cơ hội đi du lịch
các nước Pháp, Anh, Nga, rồi trở về Hương
Cảng làm chủ bút báo Tuần Hoàn Nhật Báo,
đề xướng biến pháp, đi trước
cả Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu
cả chục năm. Ông
mất năm 1878, để lại một số
tác phẩm như : -Thao
Viên Thi Văn Tập -Độn Quật Lan Ngôn -Ṭng Ẩn Mạn Lục -Ṭng Ẩn Tỏa Thoại Những truyện trong tác phẩm Ṭng Ân Mạn
Lục được viết theo thể tài chí
quái, bằng lối văn ngôn như Liêu Trai Chí
Dị, ca tụng những cuộc t́nh chung
thủy, đề cao nam nữ tự do luyến
ái, chỉ trích những tệ nạn hủ
bại của lớp quan lại phong kiến
đương thời.Văn pháp lưu loát, ngôn
từ tế nhị, t́nh tiết cố sự
uyển chuyển khúc triết chen lẫn với
nhiều bài thơ hay. Một số truyện trong Ṭng Ẩn Mạn Lục
đă được chúng tôi dịch và in trong
Hậu Liêu Trai và Thiếp Bạc Mệnh trước
đây. Vài
hàng chú thích : Yểu Nương (窅
娘)
: Yêủ
Nương là tên của một nàng cung nữ
được Nam Đường Hậu Chủ Lư
Dục.Yểu Nương chẳng những có dáng
người tha thướt, lại tài nhẩy múa.Nàng
dùng vải bó cho chân nhỏ bé và cong như cung
trăng.Nam Đường Hậu Chủ Lư
Dục làm một cái đài hoa sen bằng vàng,
cao sáu tấc, trên để những báu vật,
và các loại hoa đẹp để cho nàng múa,
trông phiêu nhiên như tiên nữ, rất được
Hậu Chủ yêu thương sủng ái, và dùng
mấy chữ :"Tam thốn kim liên 三
寸
金
蓮)
để tán thưởng nàng. Sau nầy, trong thi văn Trung Quốc thường dùng chữ "Kim Liên " để h́nh dung đôi bàn chân nhỏ của phụ nữ.Có thể nói tục bó chân của người đàn bà Trung Hoa bắt đầu từ Yểu Nương, rồi lan truyền ra dân gian, đời này sang đời khác, được sùng thượng đến nỗi người đàn bà nào không có bàn chân nhỏ, th́ bị đàn ông chê ghét, có thể không lấy được chồng. Hủ tục bó chân nầy phải chờ đến đời Khang Hy, năm 1664, mới ra lệnh cấm.Nhưng cấm lệnh của Khang Hy cũng chỉ áp dụng trong một thời gian ngắn, th́ bị phe bảo thủ chống đối, nên năm 1668, Khang Hy theo lời tâu của Bộ Lễ rút lại lệnh cấm. Đến cuộc cách
mạng Tân Hợi, hủ tục bó chân của
phụ nữ Trung Hoa mới thực sự bị
tiêu diệt. Kim Lăng
(金
陵 ) : Nhà
thơ Lư Bạch có hai bài thơ nổi tiếng
nhắc đến Kim Lăng, ở hai hoàn
cảnh khác nhau là Đăng Kim Lăng Phụng
Hoàng Đài, và Kim Lăng Tửu Tứ Lưu
Biệt. Kim Lăng
nay là thành phố Nam Kinh tỉnh Giang Tô. Theo tác
giả Cô Vong Ngôn, một truyện văn học
cực dâm, th́ Kim Lăng bị đổi
nhiều tên gọi khác nhau, theo từng triều
đại.Thời Xuân Thu, Kim Lăng thuộc nước
Ngô, thời Chiến Quốc thuộc nước
Việt, sau thuộc nước Sở. V́
vua Sở Uy Vương dựng lăng chôn vàng
để trấn yểm đất đó, nên
mới gọi là Kim Lăng. Đến
đời Tần Thủy Hoàng th́ đổi là
Mạt Lăng.Thời Tam Quốc, năm 212 CN Tôn
Quyền xây cất Thạch Đầu Thành và
đến năm 229 Quyền đóng đô ở
đó mới đổi Kim Lăng là Kiến
Nghiệp.Đời Tây Tấn, v́ tị húy Tư
Mă Nghiệp đổi Kiến Nghiệp là
Kiến Khang.Các đời Đông Tấn,
Tống, Tề, Lương, Trần và Nam
Đường đều đóng đô ở
đó.
Đời Tùy
là Tưởng Châu.
Đời
Tống là Kiến Khang Phủ.
Đời Nguyên
là Tập Khánh . Đến
Minh Thái Tổ lại đổi là Ứng Thiên
Phủ. Năm
1421 CN, Minh Thành Tổ rời đô đến
Bắc Kinh, Ứng Thiên Phủ mới gọi là
Nam Kinh Năm
1853 CN, Nam Kinh trở thành quốc đô của
Hồng Tú Toàn và gọi là Thiên Kinh. Năm
1927 Trung Hoa Dân Quốc thành lập, đến năm
1930 lại gọi là Nam Kinh Thị Hồng Tú Toàn (洪 秀 全) : Nguyên
tác viết là "Xích khấu chi loạn 赤
寇
之
亂",
v́ vào thời điểm tác giả viết
truyện này, Hồng Tú Toàn c̣n bị coi là
giặc, và khi khởi nghĩa dùng mầu cờ
đỏ, nên tác giả dùng chữ "xích
khấu" để ám chỉ Hồng Tú Toàn
giặc, chứ chưa được tôn xưng
là một nhà cách mạng như ngày nay ở
lục địa. Hồng
Tú Toàn sinh năm 1814 mất năm 1864. Ông là
người Hoa Huyện tỉnh Quảng Đông ,
nguyên danh là Hỏa Tú, rồi lại đổi là
Nhân Khôn, và măi đến khi lớn mới
tự lấy tên là Tú Toàn. Ngay
từ hồi c̣n bé, Toàn là đứa trẻ
hiếu học, nên rất được thân
phụ thương yêu.Khoảng năm Tuyên
Thống nhà Thanh, Toàn ra nhập "Bái Thượng
Đế Hội", nhận Chu Cửu Đào làm
sư phụ. Khi Cửu Đào
mất, Toàn được đồ chúng
đưa lên làm giáo chủ. Để thu hút và
mê hoặc quần chúng, Toàn phao ngôn ḿnh là con
thứ hai của thượng đế, em
của Chúa Giê Su. Năm
1851, với sự pḥ tá của Dương Tú
Thanh và Thạch Đạt Khai, Toàn khởi nghĩa
ở thôn Kim Điền, tỉnh Quảng Tây,
rồi đem quân đánh chiếm châu Vĩnh An,
kiến lập Thái B́nh Thiên Quốc và đem quân
Bắc phạt, liên tiếp chiếm được
nhiều tỉnh, Năm
1853, Toàn công hạ Kim Lăng (tức Nam Kinh ),
tự xưng là Thiên Vương và đóng đô
ở đấy.Toàn ra lệnh đổi Dương
Lịch, cải y phục, đề xướng tân
học, phế bỏ tục bó chân của
phụ nữ, phế bỏ xướng kỹ,
cấm nha phiến. Quân
triều đ́nh nhiều phen bị Toàn đánh
bại. Nhưng
về sau v́ nội bộ lănh đạo mâu
thuẫn, các tướng đố kỵ giết
hại nhau, khiến ḷng dân ly tán.Thái B́nh Thiên
Quốc bị Tăng Quốc Phiên và Tả Tôn
Đường, những trọng thần của
Thanh triều, đánh bại. Năm
1964, Thiên Kinh bị phá vỡ, Hồng Tú Toàn
uống độc dược tự tử.Thái B́nh
Thiên Quốc bị diệt vong. Tầm Dương (潯 陽) : Tầm Dương là tên một quận đời
Đường, nay thuộc thị trấn
Cửu Giang tỉnh Giang Tây. Thời Tùy đặt
tên là Bồn Thành, sang đến nhà Đường
mới cải là Tầm Dương.
Nhà thơ
Bạch Cư Di bị biếm làm Tư Mă Giang Châu,
từng để lại dấu chân của ḿnh
ở địa danh này, qua bài thơ nổi
tiếng « Tỳ Bà Hành 琵
琶 行 »,
mở đầu bằng câu : « Tầm Dương
giang đầu dạ tống khách ». Sau
này, khi Tống Giang , thủ lănh của 108 vị
anh hùng Lương Sơn Bạc, bị đầy
đến Giang Châu, ngồi trên lầu uống rượu,
ngắnm mưa rơi trên sông Tầm Dương,
say rồi phẫn kích, đề phản thi mà
bị bắt. Nam Đường Hậu Chủ (南 唐 後 主): Nam
Đường(937-975) là một triều đại
trong thời Ngũ Đại Thập Quốc
(907 -975) do Lư Thăng
kiến lập.Hậu Chủ của vương
triều tên là Lư Dục, thường gọi là
Lư Hậu Chủ, tự là Trùng Quang, hiệu là
Liên Phong Cư Sĩ, sinh năm 937 CN, mất năm
978 CN Năm
961CN Lư Dục được phong làm Thái Tử,
lên nối ngôi cha. Là
một ông vua tài hoa phong nhă, giỏi thơ văn,
hội họa, âm luật và đặc biệt
về từ khúc.Trong suốt thời gian tại
vị, Hậu Chủ không lo nhiều đến
chính sự mà chỉ chuyên chú vào những
yến tiệc, ca vũ, vui đùa cùng bầy cung
tần mỹ nữ. Những
câu truyện diễm t́nh của Hậu Chủ
với những giai nhân tri kỷ cũng như
những bài từ của ông được người
đời đua nhau tường thuật
truyền tụng.Đặc biệt là ông
từng sủng ái nàng cung phi Kiều thị.Kiều thị là người
rất thông minh, viết chữ rất đẹp,
lại tôn thờ đạo Phật, Hậu
Chủ tự tay viết "Kim Tự Tâm Kinh
" để tặng nàng Năm
975, Nam Đường bị Tống Thái Tổ
Triệu Khuông Dẫn diệt, Kim Lăng bị phá
vỡ, Hậu Chủ bị bắt làm tù binh.Trước
cảnh quốc phá gia tan, Hậu Chủ tuy đau
đớn như đứt tùng khúc ruột, nhưng
vẫn không bỏ được "tật"
phong lưu, vung bút viết một bài từ để
đời, tả cảnh vong quốc, lời lẽ
rất là thê lương, đau đớn, đó
là bài "Lâm Giang Tiên." Hậu
chủ bị đưa về Biện Kinh, hai năm
sau th́ bị Tống Thái Tông Triệu Khuông Nghĩa
sai em là Triệu Đ́nh Mỹ đánh thuốc
độc chết. Sau khi Hậu Chủ mất, Kiều thị đă viết lại "Kim Tự Tâm Kinh" , chữ viết rất đẹp, đem dâng vào chùa Tướng Quốc để cầu phúc cho Hậu Chủ. Lạc khoản (落 款) Kư tên
trên những thư tín, lễ phẩm, thư,
họa th́ gọi là lạc khoản Ngũ Đại Thập Quốc (五 代 十 國) : Năm
907 CN, Chu Ôn diệt nhà Đường xưng
đế, lấy quốc hiệu là Lương,
sử gọi là Hậu Lương, chiếm
một phần lớn phía Bắc nước
Tầu, kế tục sau đó xuất hiện các
nước như Hậu Đường, Hậu
Hán, Hậu Chu, Hậu Tấn. Sử gia gọi năm
nước này là thời kỳ Ngũ Đại. Đồng
thời với năm nước này, ở phía
nam nước Tầu cũng xuất hiện trước
sau 10 nước là Ngô, Nam Đường, Ngô
Việt, Sở, Mân, Nam Hán, Tiền Thục,
Hậu Thục, Kinh Nam, Bắc Hán.Năm 979 CN, các
nước này bị Triệu Khuông Dẫn tiêu
diệt, kết thúc cục diện thời kỳ
Ngũ Đại Thập Quốc. Đậu khấu (荳 蔻): Đậu
khấu là một loại hương thảo, hoa
nở vào mùa hè, mọc ở xứ nóng, rất
đẹp, dùng làm thuốc được.Trong các
văn thơ cổ điển, người dùng
từ ngữ đậu khấu để tương
trưng người con gái c̣n trong trắng chưa
lấy chồng. Lương Vũ Đế (梁 武 帝): Sinh năm
464 CN mất năm 549 CN. Lương
Vũ Đế tên thật là Tiêu Diễn, người
sáng lập nhà Lương thời Nam Triều,
tự là Thúc Đạt, vốn là người
đồng tộc của vua nhà Tiêu Tề, em
họ Tiêu Đạo Thành, người Nam Lan Lăng
(nay thuộc tỉnh Giang Châu, phía tây bắc Thường
Châu).Tiêu Diễn từng làm quan nhà Tề,
giữ chức Thứ Sử Ung Châu, trấn
thủ Tương Dương.
Nhân vua Tề vô
đạo, giết người anh của Tiêu
Diễn, Diễn khởi binh vây hăm Kiến Khang, l ập
Tiêu Bảo Dung làm Ḥa Đế. Diễn
nắm chức Đại Tư Mă, và được
phong Lương Vương. Năm
502 CN, Diễn được nhường ngôi,
lấy quốc hiệu là Lương, trọng
dụng sĩ tộc, sửa sang văn giáo,
nhờ vậy quốc thế được
chấn hưng. Sau
lại dốc ḷng tín thờ Phật giáo, xây
cất Đồng Thái Tự, ba lần vào đó
tu. Năm
547 CN, Tiêu Diễn tiếp thụ đầu hàng
của Hầu Cảnh.Hai năm sau th́ bị
Hầu Cảnh dẫn binh vượt sông nam
hạ, công phá thủ đô, Tiêu Diễn bị
đói và bệnh mà chết. Tiêu
Diễn là người giỏi về văn
học, âm luật, thư
pháp. Văn
pḥng tứ bảo (文 房 四
寶): Văn
pḥng tức thư pḥng.Cổ nhân ngày xưa
ở trong thư pḥng thường dùng và thường
bầy biện bốn vật dụng được
quư trọng như bảo vật là bút, giấy,
nghiên, mực.V́ thế nên gọi là văn pḥng
tứ bảo. (Dịch
xong ngày 21-5-2004 lúc 12:42.Phạm xuân Hy) _______________________________________________ Cảm tưởng về thơ văn của anh Phạm Xuân Hy xin gởi về pxhy@erct.com |