|
LAN QUÂN
TỬ Màu hoa
thắm vẫn
sống trong
tôi (Nguyễn
Văn Đông: Lan Quân Tử,
Tây phương gọi là Clivia
(hay Clivea).
Nó không thuộc vào nhóm các cây Lan (Orchid)
mà lại thuộc giống lilies,
đặc biệt rất gần với African Lily
(Agapanthus).
Loại này đẹp cả hoa lẫn lá.
Nh́n cây Lan Quân Tử ta thấy lẽ ra cái
câu “mướt quá
xanh như ngọc” của Hàn Mặc Tử
phải dành để tả cho những chiếc
lá này mới đúng. Hoa th́ màu cam đậm, nhưng mỗi cánh
hoa có 1 đường viền nhỏ màu vàng
nhạt. Khoảng
12-18 cái hoa cụm lại làm thành 1 chùm và mỗi
cây trung b́nh có được 2-3 chùm hoa.
Tất cả nằm chen giữa đám lá
xanh bóng bẩy, rực rỡ nhưng không lồ
lộ. Phải nói
đây là một loài hoa đẹp thanh nhă, ai
đi ngang trông thấy cũng không thể b́nh
thản bước qua. Cái
tên Lan Quân Tử (Jun-Zi
Lan) là của người Trung Quốc, và
truyền qua Nhật (Kunshi-ran) -- nhưng tại sao họ gọi thế th́
không rơ. Phải
chăng v́ cây hoa chịu được những
hoàn cảnh khó, cứ như người “quân
tử cố cùng” ?
Ví dụ đất có thật khô, hay ngược
lại quá ướt, cây vẫn sống
được như thường.
Năm ngoái, được anh bạn ở
Wollongong cho mấy cây về làm giống,
tôi đem trồng thẳng vào ngay trong vườn
(không trồng chậu v́ nghĩ rằng
Wollongong và Canberra có thời tiết giống nhau,
có trồng ngoài đất cũng chả sao).
Nhưng trời mùa đông Canberra lắm sương,
một loạt cả mấy cây đều bị
đông cứng ! Tuy
vậy khi qua Xuân cây lại ra mầm trổ lá, có
cây c̣n cho được cả hoa, tuyệt
diệu ! Hay là
hoa cứ như người quân tử, biết
nhẫn nại trong hoàn cảnh khó, để khi cuộn th́ vắn,
khi vươn th́ dài ? Clivia
c̣n có tên khác là Kaffir
Lily. Khoa
học xếp nó vào họ Amaryllidaceae.
Có tất cả hai loại:
Clivia
Miniata -
cao khoảng 45cm, và Clivia
Nobilis -
cao khoảng 60cm, ít phổ biến hơn loại
trước nhưng
có lá dài và đẹp hơn.
Hồi viếng thăm Đà Lạt năm
1986, tôi có thấy một cây Clivia
Miniata đang
nở hoa trong vườn ươm cây (đó là
vườn Bích Câu ngày trước, sau này đổi
ra quốc doanh và kèm luôn việc bán hoa giống).
Hỏi anh chuyên viên phụ trách, anh ta cũng
không biết tên là ǵ.
Tôi cứ nghĩ, nếu chưa đặt tên,
sao người Việt ḿnh không theo người
Nhật mà gọi nó là Lan Quân Tử ?
Cái tên gợi ra được tính chất
truyền thống Đông phương, và chỉ
làm ta giàu thêm vốn liếng về từ
ngữ. * Cây
lan này, tôi được thấy lần đầu
tiên khi đến nhà vị giáo sư chỉ
đạo của tôi vào khoảng năm 1975.
Thấy cây hoa đẹp, tôi thích lắm,
hỏi cây ǵ. Ông
thầy đáp ngắn gọn:
Đó là Kunshi-ran ! Duyên
thầy tṛ với ông cũng là chuyện hăn
hữu. Tôi không biết ông, chỉ thích những
bài ông viết trong tạp chí Chuo
Koron rồi đi gơ cửa pḥng nghiên cứu
của ông mà t́m đến.
Từ đó suốt bao năm trời đằng
đẵng, với tôi ông vừa là thầy, cũng
vừa là người bạn.
Nếu ông không bận, tôi và ông có thể
ngồi nói với nhau cả ngày không hết
chuyện. Ông cảm được cả
những bài thơ Việt Nam bằng chữ Hán
khi sửa cho tôi một chương viết
về sự thất bại của phong trào
Cần Vương ở Việt Nam: Nhung trường phụng mạng
thập canh đông (Phan Đ́nh Phùng:
Lâm Thời Cảm
Tác) Cụ
Đào Trinh Nhất dịch: Nhung trường vâng mạng đă mười
năm Ông
hơn tôi 10 tuổi, nhưng điềm đạm
hơn đến ba bốn chục lần.
Nói chuyện với nhau, nhiều khi ông
chỉ cười, không đưa ra câu trả
lời, để cho tôi tự t́m lấỵ.
Có lần bàn luận về cụ Phan
Bội Châu (PBC), ông hỏi:
"PBC đi
cầu Nhật Bản hay một cường
quốc nào đó th́ khác nhau ǵ?"
Tôi nói ngay: "cầu viện nước nào cũng ở chỗ
họ có chịu giúp hay không mà thôi".
Ông hỏi lại: "cầu
viện Nhật hay Mỹ cũng giống nhau sao?".
Khi tôi trả lời "giống
nhau", ông cười, im lặng.
Phải bao nhiêu năm sau, khi nét nh́n về
quan hệ quốc tế khá hơn, tôi mới
hiểu là thưở đó ḿnh suy nghĩ
khờ khạo. Ông
dạy tôi kiên nhẫn.
Khi đi kiếm tài liệu ở kho Lưu
Trữ của bộ ngoại giao Nhật, thấy
tài liệu toàn viết bằng viết lông,
chữ viết tháu mà văn chương toàn
là thứ cổ lổ sĩ thời Minh Trị, tôi
ngán tới cổ. Nhưng ông khuyến khích,
bảo đọc măi rồi quen đi sẽ thành
dễ. Quả là
lâu cũng quen dần thật. Ông
thường nói: "Khi
đi interview người Nhật, phải cẩn
thận. Phần
lớn người Nhật có tính x ấu là
đối với người Âu Mỹ th́ riu ríu
hỏi ǵ nói đó, c̣n đối với người
xứ khác th́ nói láo trắng trợn 1 cách
thản nhiên". Điều
này tôi thấy ngay được khi nói chuyện
với một ông giáo sư trường đại
học nọ (ông này được chính phủ
Nhật giao cho tổ chức việc nghiên cứu
về quan hệ Nhật-Việt thời trước
1945). Có
lần ông ta cho tôi một tin "quan
trọng", chỉ có ḿnh ông ta biết.
Đó là việc cụ Cường
Để (CĐ) có một người con
với một phu nữ Nhật, hiện người
đó đang ở Tokyo. Tôi đă biết sẵn chân tướng
vấn đề này từ trước nên ông ta
không lừa gạt tôi được.
Nhưng ông ta làm tôi chán t́nh đời.
Theo kinh nghiệm, tôi thấy những người
trong nhóm mà thiên hạ gọi là "hữu
khuynh" tuy nóng nảy nhưng bộc trực và
thành thật. C̣n
những người "tả khuynh"
(đặc biệt là những trí thức
"tả khuynh" nửa mùa, nghĩa là giả
bộ có tư tưởng cấp tiến, tự
do) thực sự
lại rất ích kỷ, giả nhân giả nghĩa,
khí độ hẹp ḥi và không bao giờ giữ
lời hứa. Khi
kể chuyện “tin quan trọng” nói trên cho
thầy tôi, tôi hỏi:
“ông giáo sư
kia đưa tin như thế để làm ǵ ?”.
Ông trầm ngâm suy nghĩ, nhưng không nói ǵ.
Tính ông vốn thận trọng. Ông
c̣n dặn tôi một điều khác là “Chỉ
hỏi cái ǵ mà người ta có thể nói
được thôi”.
Đó là sau những lần tôi đi interview
những người Nhật như các cựu nhân
viên bộ ngoại giao hay những người
quan trọng trong các công ty như NK, MB, DK, vv…
Khác với các học giả ở đại
học hay cơ quan nghiên cứu, công việc
của những người này (trừ 1 vài trường
hợp) đều có liên quan đến chính
trị, nên họ khó có thể nói một cách
tự do . Ông OC,
cố vấn của công ty NK, là nhân viên quan
trọng trong phái đoàn Nhật đi thương
lượng về việc Nhật Bản bồi
thường chiến tranh cho Việt Nam.
Ông ST, trưởng phái đoàn, lại là phó
chủ tịch của Keidanren
(Japan’s Federation of Economic Organisations). Riêng về công ty DK th́ họ có quan hệ
mật thiết với quân bộ Nhật.
Người giám đốc của công ty là
ông M. Từ
những năm cuối thập niên 1930, ông M.
đă làm đại diện ở Việt
Nam cho cụ CĐ hầu
thâu tiền do giáo đồ đạo Cao
Đài quyên góp (cho
cụ CĐ. Nhưng
cụ không nhận được bao nhiêu).
Trong giai đoạn 1940-45, công ty này kiêm luôn
việc tiếp vận hậu cần cho quân đội
Nhật đi xuống Mă Lai và Indonesia … Có
lẽ v́ là học tṛ mặt trắng cho nên khi tôi
điện thoại xin gặp, họ đều
bằng ḷng ngay. Nhưng
nói chuyện có thâu băng, vả lại lúc
ấy tôi ngơ ngơ như ngỗng đực,
lại quá hăng hái, cho nên cái ǵ biết
(phần này ít) th́ hỏi quá nhiều, cái ǵ không
biết th́ muốn họ nói ra hết những
điều ḿnh mong mỏi, thành ra cái biết
của họ về quân đội Nhật
thời ở Việt Nam, về hai ông Ngô Đ́nh
Diệm, Ngô Đ́nh Nhu, cụ Cường Để,
về quan hệ Nhật-Việt vv... cứ bao la
như biển mà tôi chỉ nhận được
một vũng nước nhỏ. Ông thầy tôi cười:
"Phải suy
nghĩ thật nhiều trước khi đi
hỏi chứ. Nếu
ḿnh là người ta th́ ḿnh có nói tất cả
hay không? " Ông
M. có giới thiệu cho tôi một chính trị
gia, thành viên của Jiminto (đảng Tự Do Dân
Chủ) và là nghị sĩ Quốc Hội, người
đă từng ở Việt Nam lâu ngày thời trước
1945. Ông này
lại giới thiệu cho tôi gặp cựu đại
úy “K”. Đây
là viên sĩ quan đă từng dẫn ông Ngô
Đ́nh Diệm đi trốn mật thám Pháp vào
đầu năm 1945. Thấy
tôi chỉ là học tṛ, cả hai người
đều có thiện cảm, nhưng tôi khờ
khạo, không biết hỏi những ǵ người
ta có thể nói được, thành ra lỡ
nhiều cơ hội bằng vàng.
Bây giờ họ tất cả đều ra
người thiên cổ, làm sao tôi trở lại
thời 20 năm xưa để hỏi thêm ? (Không
nói đến những việc ǵ mà các người
vừa kể có thể đă làm đối
với Việt Nam, trên khía cạnh cá nhân,
thực sự tôi rất cám ơn và kính
trọng tư cách của họ. Họ chỉ không
nói ra những ǵ không tiện nói, nhưng ai cũng
tự trọng, không bịa chuyện, không đánh
lạc hướng. Họ
giúp tôi những ǵ họ có thể làm, và tỏ
ra có t́nh cảm đối với kẻ hậu
sinh. Trong họ có
cái nghĩa khí tốt đẹp của Nho Giáo,
của văn hoá phương Đông, một
điểm mà tôi thấy đă quá tàn phai và
hầu như lịm chết trong ḷng nhiều
học giả ở chính trên đất nước
tôi !) Năm
tháng dần trôi, đến ngày tôi rời xứ
Nhật. Trước
khi đi, đến chào thầy.
Lúc về, cả gia đ́nh ông tiễn tôi
ra cửa, hai đứa con nhỏ của ông
bật khóc. Ông
đi với tôi thêm một khoảng đường,
nói những câu ngắn.
Con đường dài, đưa xa đến
mấy rồi cũng phải chia tay.
Tôi đi một khúc, quay đầu trở
lại, thấy ông vẫn c̣n đứng nh́n
theo. Mới ngày nào
đó, c̣n thấy như hôm qua, nhưng đă 20
năm rồi ! Từ
đó: Seasons have come and seasons have gone * TRONG
việc đi t́m tài liệu, tôi c̣n may mắn
gặp được một người rất
tử tế, đó là bà A.C.
Bà cụ là người "bạn
đường" của cụ Cường
Để (CĐ). Trên
danh nghĩa, bà chỉ là một quản gia, nhưng
thực tế không phải thế.
Bà gặp cụ lúc nào không rơ (v́ bà không nói). Dựa trên việc bà có đi Măn Châu
với cụ (và thủ tướng Inukai) vào năm
1930-31, có thể đoán được là bà
đă gặp cụ nhiều năm trước
đó. Có lẽ
việc bà đến với cụ cũng là do các
chính trị gia Nhật sắp đặt. Tại
nhà bà, trước mặt tôi là một bà cụ
tuy đă 80 nhưng vẫn c̣n ung dung phong độ,
ăn mặc rất tề chỉnh.
Ngay từ phút đầu, tôi hiểu
được xưa kia bà phải là một
phụ nữ sắc bén và có khả năng.
Bà có ra vườn hái cho tôi một trái ichijiku
(fig), bảo rằng đọc là ichijiku
nhưng viết là "vô hoa quả"… Hơn
phân nửa của căn pḥng lớn nhất trong
nhà bà là một viện bảo tàng lưu trữ
di vật của cụ CĐ.
Ngoài cái bàn thờ ra, khắp nơi đều
có kỷ vật: nào bên này là cái áo choàng, bên
kia là tấm nệm "futon" mà ngày trước
cụ nằm, rồi cái dù, cái roi cầm khi
cỡi ngựa. Lại có một bức ảnh chân dung
của cụ rất to, rồi những đôi dép
(tabi) ngày trước
của cụ cũng vẫn c̣n để nguyên,
cứ như là
cụ chỉ đi đâu vài ngày rồi sẽ
về dùng lại vv…
Tôi hiểu được h́nh ảnh
của cụ trong ḷng bà phải rất sâu đậm. Cho nên sau đó, khi hỏi về lai lịch
của bà và sự liên quan với cụ ,
thấy bà lắc đầu nói nho nhỏ "nói
ra làm ǵ", tôi không đề cập tới
nữa. Nhưng
chậu Lan Quân Tử nằm chỗ genkan
(cửa ra vào) có lẽ không phải di vật
của cụ.
Thưở đó tôi thấy măi mà không
hỏi thử, biết đâu … ?! Tôi
đến nhà bà cụ nhiều lần v́ bà
đă 80 tuổi, không thể nhớ điều
đă quá lâu, phải thu góp từng mảnh
nhỏ qua nhiều lần tṛ chuyện khác nhau.
Bà có một người con nuôi, gia đ́nh
anh này ở chung với bà. Chính anh này là người mà ông giáo sư
nói trên đă "hé màn bí mật" cho tôi
biết là "con ruột" của cụ CĐ.
Nhờ anh có tu bổ ngôi mộ của chí sĩ
Trần Đông Phong nên lâu năm mà nó vẫn c̣n
tươm tất. Cũng
qua bà, tôi biết đươc ngôi mộ
nằm ở đâu để đi thăm. Bà
c̣n cho tôi xem 1 cái rương nhỏ chứa
tất cả tài liệu và dụng cụ văn
pḥng ngày trước của cụ
Trong đó có nhiều bức h́nh của
nhiều người (mà tôi không biết là
những ai, chỉ trừ cụ, ông Inukai và
cụ Phan Bội Châu).
Hỏi có ai trong mấy tấm ảnh là sinh
viên thời Đông Du không, bà cụ nói không
biết. Quả thật là bà không biết nhiều
về nhân sự phía Việt Nam.
Hỏi có biết cụ Phan Bội Châu không,
bà bảo có nghe tên thôi. Bà
có cho tôi biết là khi cụ mới qua đời,
có để lại đến hai bao tải
rất to đầy giấy tờ và tài
liệụ Nhưng
một thời gian sau đó, có hai sĩ quan
Việt Nam đến bảo là ghé qua trên
đường đi Kentucky (Mỹ),
rồi mang đi tất cả.
Bà vẫn ngạc nhiên tại sao hai sĩ
quan Việt Nam ở đâu mà biết nhà bà để
đến lấy đi.
Tôi hỏi có phải ông M. biết nhà bà hay
không, bà gật gù: "phải
rồi, thế th́ M. cử họ tới lấy
chứ không ai vô đó cả .
Lúc đó tôi không tỉnh táo, ai hỏi ǵ cũng
đưa". (Bà
cụ ghét ông M. lắm). Trong
cái rương đó c̣n có con dấu, ấn tín,
triện, đủ thứ … và tuyên ngôn,
truyền đơn, chứng minh thư v.v. ...
của Phục Quốc
Đồng Minh (một tổ chức chính
trị thân Nhật do cụ CĐ đứng
đầu). Lại
có danh sách những người Việt Nam trong nước
ủng hộ cụ CĐ,
và một tờ ghi chép đầy đủ
các chi nhánh, với tên của các chức sắc
trong đạo Cao Đài chia theo từng khu
vực, chi nhánh, tổng số giáo đồ toàn
quốc v.v… (Đạo Cao Đài hồi đó
rất ủng hộ cụ CĐ.
Phù hiệu của Phục Quốc Đồng
Minh có h́nh con mắt).
Bà cụ có cho tôi mấy cuốn sổ tay
của cụ, bên trong ghi chép nhiều thứ xen
lẫn với nhau, chữ Nho có, chữ ta có (v́
cụ vốn cẩn thận.
H́nh như khi ghi chép, cụ ghi chung sự
kiện với những toa thuốc, hay địa
chỉ của những ai đâu đâu, vv… mà
khi đọc chắc chỉ có một ḿnh cụ
hiểu). Tôi
sung sướng, để th́ giờ khám phá
dần cái rương.
Có một bức thư với chính thủ bút
của cụ, viết bằng chữ nho, gửi
cụ Hồ Chí Minh. Nhưng
chỉ có cái b́ thôi, không có ruột.
Có thư cụ gửi cho tổng thống
Mỹ, yêu cầu để Việt Nam độc
lập như Mỹ trao độc lập cho
Philippines. Có thư cụ viết về lập trường
của ḿnh bằng hai thứ tiếng Nhật và
Anh, đánh máy hẵn ḥi
( lá thư này, về sau tôi được
biết là do một trong những người
Nhật nói trên viết hộ cho cụ ).
Lại có bài thơ cụ làm để
tặng tướng Nguyễn Văn Xuân: Đạp tuyết dày sương (...) Ông
Nguyễn Văn Xuân là người quốc
tịch Pháp, có vợ đầm, giữ chức
thiếu tướng trong quân đội Pháp.
Năm 1946, khi trở lại đánh Việt
Minh hoài không thắng nỗi,
Pháp chơi tṛ lắc léo, vừa đánh
vừa đàm và lập nước Nam Kỳ
Tự Trị do bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm
Thủ Tướng, có ông Xuân làm phó.
Việc này quốc dân Việt Nam phản
đối rất mạnh.
Vài tháng sau, không hiểu sao ông Thinh chết
(Pháp bảo là tự tử), ông Xuân lên thay.
Về sau (1950-51) khi bắt buộc phải
trao “độc lập” cho vua Bảo Đại
(sau đó gọi là Quốc Trưởng), Pháp cho
ông Xuân làm Thủ Tướng.
Không hiểu cụ gửi ông Xuân vào
thời gian nào, nhưng bài thơ cho thấy
cụ đă thành lẩm cẩm, không phân
biệt đen trắng được nữa…
Nói cho đúng, không có cụ PBC, cụ CĐ
chỉ là một con chim non trong băo tố mà thôi. Xem
những tài liệu trong rương được
vài tuần, sau đó khi tôi đến nữa th́
bà cụ nói v́ cho tôi xem mà bà bị "tsuji no
hito" (người có liên hệ) trách cứ, và
không thể để tôi xem cái rương
nữa ! Bà không
muốn cấm tôi, nhưng có áp lực ǵ đó
bên trong, đành phải nghe theọ Có
lần bà hỏi tôi có thực sự tôn kính
cụ CĐ không. Tôi
nói rằng về
t́nh cảm tôi thông cảm cụ đă
sống một cuộc đời quá đau
khổ, từ khi mới làm chính trị cho đến
khi chết, kể luôn cả đám tro tàn c̣n
lại cũng c̣n bị người ta lợi
dụng, nhưng trên thực tế th́ cái kết
quả vẫn không thuận lợi cho cụ nên
rất khó mà chứng minh rằng khi so tổng quát
lại, cụ có thể có công với lịch
sử Việt Nam. Bà
cụ nh́n tôi, chẳng nói ǵ.
Tôi nói thêm rằng bản thân tôi thấy cám
cảnh cho cụ nên mới muốn nghiên cứu
cho rơ, mà việc nghiên cứu chưa xong.
Tôi hiểu cái cảnh bơ vơ và cô
đơn của cụ khi những điều
cụ mong mỏi không có ǵ thành sự thực. Cụ bảo cứ "nằm
gai nếm mật" làm Câu Tiễn để
khi nào thành công hẵn tung cánh bay lên.
Nhưng người ta biết rơ cụ
mồn một, hoá ra cái kế "nằm gai
nếm mật" của cụ chỉ làm cụ
chịu cay đắng thôi. Từ khi 19 tuổi đă bỏ hết
vợ dại con thơ đem thân phiêu bạt nơi
xứ lạ, con người như thế không
phải là không có chí. Từ đó xa nhà luôn 45 năm, đến
những phút cuối của cuộc đời
muốn trở về xứ mà cũng không về
được… Đến
đây th́ cụ bà bùi ngùi bảo :
"lần đó đi về Việt
Nam không được, trở lui mới buồn
mà suy yếu, rồi mất đó chứ.
Khi gần nhắm mắt, có nói mấy câu
tiếng Việt. Cụ
muốn trối trăng ǵ đó, nhưng làm sao tôi
hiểu …! " Tôi
vẫn thường đến với bà cụ,
khi th́ tự đến, khi th́ do bà cụ kêu.
Những khi nhớ ra điều ǵ, bà
cụ lại bảo người nhà kêu tôi đến,
rồi cho một ít tài liệu, hoặc kể
lại chuyện xưa, vv…
Bà cụ kể hồi ở Măn Châu, mật
thám Pháp bắn đạn vào hotel rào rào ra sao...
Vào sau này th́ có việc cụ Ngô Đ́nh
Diệm cử hai ông Phan Thúc Ngô, Phan Thúc Huỳnh
qua xin cụ cho ông Diệm làm đại diện,
họ lạy lễ đại triều ra sao
… Rồi lúc
đi Mỹ, ông Diệm ghé qua Tokyo gặp cụ,
hai người ôm nhau khóc ra sao, vv…
Tôi ghi chép những chuyện này.
Khi nào có dịp,
tôi hỏi bà cụ có biết những người
như Lê Tản Anh, Shibata Trần văn An, Hoàng
Nam Hùng, Trương Anh Mẫn, Trần Trung
Lập, Ngô Quốc Long vv…
cụ bà chỉ biết một vài cái tên (ví
dụ như Trương Anh Mẫn), nhưng không
biết họ làm ǵ. Ngoài
việc cho tài liệu, cụ bà c̣n muốn cho tôi
vài đồ vật của cụ CĐ như cái
roi để cưỡi ngựa, tấm áo choàng,
cái dù, thậm chí đến cả cái mền
futon v.v... Nhưng thưở đó tôi ở
trọ trong cư xá, có nhà cửa ǵ đâu để
cất, đành phải từ tạ ḷng tốt
của bà. Điều
tôi vẫn tiếc là khi chụp ảnh chân dung
của bà, tại sao tôi lại không xin chụp
chung với bà một tấm ! Có
lẽ phần đối thoại nhiều
nhất giữa bà cụ với tôi đă là
phần im lặng. Cuộc
đời chính trị của cụ CĐ quá
tế nhị, cho nên có nhiều điều
cả bà cụ lẫn tôi đều không nói ra
được những nhận định
của ḿnh, chỉ biết im lặng mà hiểu.
Những suy nghĩ của cụ đơn
thuần quá, nhưng cá nằm trong thớt, ai cho
kén chọn vàng thau? Thành
ra kết quả là cụ phải chịu đi
theo những điều người khác đưa
đẩy tuy trong ḷng không muốn, và gánh
chịu những cái hậu quả tất nhiên
phải tới. Nhưng
trên mặt t́nh mà nói, có thể bảo là
thấy thương cụ hơn là giận mà phê
phán. Cho nên
cả bà cụ lẫn tôi đều thấy không
có ǵ hơn một sự im lặng để
hiểu ngầm. Tôi
vẫn mong có dịp trở lại Tokyo để
có thể đi thăm mộ bà cụ.
Bao giờ tôi cũng vẫn nhớ trái ichijiku
mà bà cụ đă cho, khi mới gặp
lần đầu. * Hai
giống Lan Quân Tử mà bạn tôi đă
tặng, bây giờ được trồng trong
chậu. Vào
những tháng ấm, tôi đem ra vườn,
để ở chỗ có nắng mai, dưới
cây táo lớn. Khoảng
đất này có nhiều dế, mỗi đêm chúng
thường rủ nhau vui vẻ hát ca.
Tôi thích nghe tiếng dế trong đêm khuya. Có lẽ không có thứ nhạc ǵ của loài
người có thể sánh bằng tiếng dế
kêu trong đêm trường tịch mịch.
Tiếng kêu sao làm tâm trí ḿnh thấy thanh
thoát mà ḷng vẫn nghe có ǵ vương vấn,
thiết tha! Tiếng
kêu cũng lắm lúc làm tôi hồi tưởng
lại những ngày c̣n ở Nhật.
Trong ư nghĩ, h́nh ảnh của thầy tôi
– và bà cụ – hiện ra rơ rệt.
Những kỷ niệm thật trong sáng,
nhẹ nhàng, như màu những chiếc lá Lan Quân
Tử xanh biếc mà tôi đă thấy trong
những ngày xa xưa ấỵ
Ôi
cây Lan Quân Tử, tôi có mến thương cũng
không phải chuyện t́nh cờ. ______________________________________________________________________________ Văn-Lang Tôn-thất Phương, Canberra, sơ
Thu 2001.
|