Ngày Xanh
nơi Trường Cũ
Nơi ấy bao ngày vui qua
[Nhạc: Ngày-Bướm-Hoa
Xưa] Có phải
trên đời này, con người ta vẫn có duyên nợ với nhau? Không ai dám chắc, v́ biết đâu đó
cũng chỉ là kết quả tự nhiên của những cố gắng cùng t́m đến? Nói như thế, điều “vô duyên đối diện bất tương phùng”
phải chăng chỉ là kết quả của việc con người ta có cơ hội gặp nhau, nhưng
người này không thấy cần thiết phải t́m đến với người kia? Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa, việc t́m lại được vị thầy ở thời trung học của tôi đă là một điều may mắn lớn, làm tôi đâm ra tin đôi khi giữa người và người vẫn có duyên với nhau! Không có cơ duyên sao được, với trên 40 năm xa cách, trải qua bao nhiêu bể dâu, ngay bạn bè cùng trang lứa cũng đă có lắm người đi sang cơi khác; những người c̣n lại th́ tản mạn ra mọi nẻo, trong nước và khắp năm châu; con người muốn t́m nhau chăng nữa, non cao đất rộng, làm sao mà biết được ! Nhưng, thế mà rốt cục ... bỗng nhiên t́m được nhau, thật là kỳ diệu ! Xin cám ơn những ai đó, những con người vĩ đại, đă đem đến cho nhân loại cái phát minh ra hệ thống email quá tiện nghi! Thực là
khó tả cái cảm giác đầu tiên khi mở máy ra và nhận được tin của Thầy. Trước tiên là vui mừng, rồi sau đó
– liên tiếp trong nhiều ngày – cứ thấy trong ḷng sao có một cái ǵ man
mác đầy hoài niệm ... Những h́nh ảnh thưở hoa niên bỗng tự nhiên trở lại
trong trí, xa vắng mà gần gũi, nhẹ nhàng mà thật dạt dào! Cứ như thấy rơ mồn một trước
mắt: Ngôi trường cũ của tôi
đấy, với hai hàng cây cao ở sân trước, những băi cỏ xanh, những con đường
dẫn vào bên trong thẳng tắp, sạch sẽ, với những cây lan đất mọc lẻ tẻ hai
bên ... Những người thầy của tôi đó, dáng điệu trang nghiêm mà rất thân
thương. Bạn bè của tôi đó,
những gương mặt trẻ, mắt chưa vướng bụi đời, cùng nhau nô đùa, phá phách
... Lớp học của tôi đó, những
chiếc bàn gỗ con con rắn chắc mà phần nọ chỗ kia trên mặt c̣n ghi dấu vết
của từng lớp học đă đi qua ...
Dăy sân sau của trường tôi đó, những lúc ra chơi, hay những khi tụ
nhau xem tranh giải thể thao, bao giờ cũng đông đúc ... C̣n như nghe được
tiếng cười, tiếng nói, c̣n như thấy được những khuôn mặt rạng rỡ, nghịch
ngợm ... C̣n nghe đâu đó
trong ḷng cái âm hưởng: Cây bàng năm xưa lá tốt xinh tươi
[Nhạc tiền
chiến] Trường cũ của tôi không phải chỉ có “hai gian lá đơn sơ ” như ngôi trường làng trong bài hát quen thuộc ngày trước. Đó là một trường rất lớn và có danh tiếng, nằm ngay giữa trung tâm của thành phố Sài G̣n. Đây là một chi nhánh của hệ thống các trường La-San (La Salle) trên toàn thế giới, nghĩa là một “trường đạo”, nhưng đó không có điều ǵ quan trọng. Đối với tôi, ngày trước, đây là nơi để đến học tập – bây giờ, là một trong những nơi để tâm tư t́nh cảm t́m về. Tôi bắt đầu vào trường từ lớp Đệ Lục. Lư do thật đơn giản: những người anh họ của tôi đă học sẵn trong đó, cho nên gia đ́nh tôi không phải t́m kiếm ǵ xa xôi. Lẽ ra như nhiều học sinh khác, cha mẹ họ đem học bạ đến tŕnh sư huynh giám học và thường thường th́ được nhận vô, nhưng gia đ́nh tôi không được chỉ vẽ, thành ra tôi phải trải qua một cuộc thi tuyển, và trở thành một chú học sinh “trường thầy gịng”. Đây là trường dành cho con trai, cho nên (không biết hên hay xui!) suốt trong bao nhiêu năm theo học ở đó, chúng tôi không có được mấy cô bạn gái đồng song để cho đời học sinh thêm nhiều kỷ niệm ... rắc rối ! Năm đó
(1960) có hai lớp Đệ Lục, tôi thuộc về Đệ Lục B. Sư huynh phụ trách lớp đảm nhận
đến 3 môn học: Giáo Lư, Pháp
Văn và Việt Văn. Giáo Lư là
dạy về kinh điển và học thuyết cơ bản của đạo Thiên Chúa. Môn này có sách giáo khoa soạn
sẵn, tŕnh độ cao dần theo mỗi lớp.
Không hiểu sao mà suốt cả năm thầy tôi không dạy nhiều về Giáo Lư
ngoài việc cho bài và bắt trả bài về những ǵ viết trong cuốn sách. Thay vào đó, mỗi sáng Thứ Hai
chúng tôi thường đến thính đường, ngồi chung với học sinh của nhiều lớp
khác để nghe giảng về Cựu Ước và Tân Ước. Cũng có nhiều chuyện khá thú vị,
dễ nhớ, tất cả xoay quanh ư niệm tuyệt đối. Ví dụ như bà E-Và bị cám dỗ, xúi
ông A-Dong ăn trái cấm nên cả hai bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, từ đó con
người bắt đầu chịu cực khổ và ai sinh ra cũng đều mắc “tội tổ tông”. Có chuyện ông già Abraham hơn 70
tuổi, đă có 1 đứa con với người thiếp rồi nhưng “thiên ư ” muốn ông phải
có thêm 1 đứa khác với bà vợ cả (bà cũng đă ngoại thất tuần). Đứa nhỏ này là Isaac, tổ phụ
dân Do Thái. Đứa kia, và mẹ
nó, bị đuổi đi, trở thành tổ phụ của dân Ả Rập. Lại có chuyện Do Duệ (Joshua) chỉ
cho mặt trời đứng lại để đánh nhau cho xong (không nhớ đánh ai). Chuyện Isaac chúc phúc lộn cho đứa
con thứ (Jacob? hay Cain?), nguyên nhân sâu xa là do đứa con cả v́ tiếc
công sức cần lao nên khi cúng tế đă hiến dâng toàn sản phẩm thặng dư. Lại có chuyện một người phụ nữ
không nghe lời dặn, dám quay đầu nh́n lại nên hoá thành đống muối, vv...
Qua Tân Ước, chúng tôi nhớ được một số câu bất hủ: “Hăy trả lại cho Ceasar những ǵ của
Ceasar”, hay “Ai dùng gươm sẽ
chết v́ gươm”, vv... Ngoài Giáo Lư ra, chúng tôi c̣n học nhiều bài hát. Nói chung là ca tụng kiểu tôn giáo và xin cho ḿnh sau này được lên thiên đàng, xin cho bản thân và xă hội được b́nh an: Giê Su, dưới chân chúa, con sấp ḿnh Thưở ấy tôi cũng hát rất thành tâm, mong cho đất nước thôi chiến tranh loạn lạc, dù tôi không có đạo. Năm 1960, chiến tranh chưa lan rộng, nhưng thế hệ “ngày mới lớn, tai nghe quen đạn ḿn” của chúng tôi cũng đă hiểu được cái lầm than của Việt Nam: chiến tranh vốn bắt đầu từ đời Tự Đức và vẫn c̣n âm ỉ liên miên ... Dĩ nhiên không phải bài hát nào cũng thiên về nước Việt Nam như trên. Hầu như 99% những bài hát đều có tính cách tôn giáo, cho nên nói về bài hát, tôi thấy ḿnh vẫn chỉ thích những bài ca được dạy ở trường Tiểu Học từ những năm nào: Hoa Lư ơi, muôn năm vẫn c̣n nghe tiếng Trở lại
chuyện học, có lẽ tất cả học sinh của Đệ Lục B lúc đó đều c̣n nhớ được
những kỷ niệm về học Hán Văn và Pháp Văn. Hán Văn không phải là một môn
trong chương tŕnh của Bộ Giáo Dục, nhưng sư huynh phụ trách lớp nghĩ rằng
học sinh nên có chút chữ Hán, để có ǵ nối tiếp với mạch văn học cũ của
Việt Nam, thế thôi! Cuốn sách
giáo khoa rất mỏng, do linh mục Thích ở Huế soạn ra. Cuốn này viết theo lối sách Tam Tự
Kinh, nghĩa là theo thứ tự của NGỮ ÂM để khi đọc lên nghe thành một bài
liên vận dài, chứ không theo thứ tự từ dễ đến khó. Ví dụ như : Thỉ – Thạch – Cung – Đao Chữ Đao chỉ có 2 nét, c̣n chữ Nông có đến 13 nét, rất khó đối với người mới học. Rốt cục là anh em thuộc được chữ nào hay không cũng tùy theo cái may của từng buổi. Cách trả
bài là thầy kêu khoảng nửa lớp lên bảng, rồi từng người một sẽ lên bảng
viết ra. Người đầu viết chữ
thứ nhất, người thứ nh́ viết chữ thứ hai, lần lượt như thế theo thứ tự
trong sách. Ai rơi vào chữ dễ
th́ “thắng lợi vẻ vang”, được đi về chỗ, ai rơi vào chữ khó th́ không viết
được, phải ở lại chờ h́nh phạt.
Khi đám người cùng khổ đă tự động xếp thành một hàng dài, thầy kêu
từng người một bước tới và bảo “thượng túc”, nghĩa là gác chân lên
trên cái bục cao. Rồi thầy
cầm cái thước gỗ dài và chắc, đánh vào ống chân hay mắt cá. Một cái thôi, nhưng trong đó cũng
có đến 7-8 thành công lực. Những đứa học tṛ xuưt xoa nhăn nhó, lê chân
bước trở về. Món “thượng túc” không phải chỉ dành riêng cho những đấng “Hán tự chẳng biết Hán”’ mà thôi. Vị nào phá phách, bằng hành vi hay ngôn từ, đều có hân hạnh được chiếu cố kỹ lưỡng. Có lần nọ trong sách học có câu: Tiên sinh nhập – Đệ tử bái – Tiên sinh toạ – Năi
toạ Nghĩa là: Thầy đi vào, học tṛ bái chào, thầy ngồi xuống (rồi) mới ngồi. Bỗng một
chàng ngồi gần cuối lớp, không biết vui tính hay sao mà cao hứng đọc
lớn: Tiên sinh
toạ, nải ... chuối ! Thế là được tiên sinh thỉnh ngay
lên bảng để “thượng túc”! Ôi bể khổ đong đầy ! Trả bài
Pháp Văn cũng thế, người thứ nhất phải đọc chữ thứ nhất (anh này luôn luôn
thoát), người thứ nh́ đọc chữ tiếp theo, vv... theo thứ tự in ra trong
sách. Cứ lần nào cũng như
thế, chứ không phải chuyện thầy đưa ra tiếng Việt rồi bảo học sinh nói
tiếng Pháp gọi là ǵ. Ngoài
ra, ai nói nhảy, ví dụ sau chữ thứ bảy mà đọc nhảy qua chữ thứ chín, th́
cũng bị vào “sổ đoạn trường”.
Kết quả là cũng như môn Hán Văn, có người được về chỗ b́nh yên, đám
đông “les misérables” th́ bị đứng lại. Nhưng thay v́ “thượng túc”, bây giờ học tṛ xoè
bàn tay ra lănh phạt. Cái
thước dài bằng gỗ vút xuống – bàn tay nào chả là xương thịt nhưng thước gỗ
vốn là vật vô t́nh. Một lần
nọ, có một chàng (BT) người nhỏ con nhất lớp
nhưng mật lớn, dám rút tay lại – làm cái thước oai linh phải đánh
hụt. Thời gian như bỗng ngừng đứng lại: cả lớp xanh mặt ái ngại nh́n chiếc
thân mảnh khảnh trong phút chốc sớm trở thành “hoa lạc giữa rừng
gươm”! Sư huynh
dạy lớp tôi là một người đa tài.
Ngoài việc dạy học, thầy c̣n làm trưởng biên tập cho tờ báo Liên
San của trường.
Qua công việc của tờ Liên San, chúng tôi học được những câu thơ
khá độc đáo trong truyện Kiều như: C̣n non c̣n nước c̣n dài Hoặc là Này chồng này mẹ này cha Hay là sự so sánh về ư niệm “lửa lựu” trong truyện Kiều và Bích Câu Kỳ Ngộ: Ngoài sân cuốc đă kêu hè Đua chen thu cúc xuân đào Cũng qua Liên San, một số anh em chúng tôi được đọc tạp chí Thời Nay. Đây là một tạp chí mới xuất bản, nội dung th́ phỏng theo tờ Readers’ Digest của Mỹ và có thêm một số bài viết của người Việt. Đối với chúng tôi, Thời Nay là tạp chí hay nhất Việt Nam thưở đó, nội dung nó phong phú hơn tạp chí Phổ Thông, và “dễ nuốt”, nghĩa là hợp với tŕnh độ cũng như lứa tuổi của chúng tôi hơn “Văn Hoá Nguyệt San”, hay cả “Bách Khoa”. Sư huynh c̣n phụ trách luôn cả đoàn Hiệp Hội Thánh Mẫu, nhưng tôi không nhớ đoàn thể này làm những ǵ. Trong năm này có một vài việc tôi c̣n nhớ được như hăng nước ngọt Pepsi Cola mới vô thị trường Việt Nam nên có đem đến cho học sinh uống thả cửa (nhưng không ai thích lắm v́ có quá nhiều chất gas). Lại có dịp sinh nhật sư huynh hiệu trưởng Bường, anh em xin được 1 ngày nghỉ học. Có tổng thống Ngô Đ́nh Diệm đến xem lễ vào 1 buổi sáng sớm ở nhà nguyện của trường, ông về đă lâu mà các xe an ninh c̣n lảng vảng nên chúng tôi đi học sớm mới nghe nói. Cũng trong năm này, đại tá Nguyễn Chánh Thi và Vương Văn Đông làm đảo chánh (không phải tự phát) đ̣i ông Ngô Đ́nh Diệm phải tổ chức lại chính phủ, nhưng thất bại. 1960 cũng là năm Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được thành lập, nhưng thưở ấy không mấy ai ở Sài G̣n được biết, huống chi thứ học sinh c̣n nhỏ như chúng tôi! * Mùa hè
tới, rồi qua, chúng tôi lên Đệ Ngũ, lớp học nằm trên lầu ba của dăy nhà
cao vừa mới cất. Thầy mới của
chúng tôi là một sư huynh có đôi mắt nh́n thẳng và cái cằm ngang cương
nghị. Thầy phụ trách các môn
Giáo Lư, Toán và Vật Lư.
Chúng tôi được thầy hướng dẫn liên tiếp trong hai năm (Đệ Ngũ và Đệ Tứ). Dưới “triều đại” mới, chúng tôi
được đối xử như người lớn, không khí hằng ngày trong lớp học thoải mái,
tuyệt đối không có h́nh phạt trên thân thể, không có căng thẳng ǵ đáng
kể. Học về tôn giáo cũng thế,
những bài giảng thiên về phần đạo ít hẵn xuống, trong khi “phần đời” như
rèn nhân cách, gương danh nhân vv... có nhiều hơn. Ngay cả trong phần giảng về đạo,
thầy cũng chỉ gieo ư niệm vào sự suy nghĩ của học sinh một cách gián tiếp,
“như gần như xa”. Ví dụ như
bài giảng về sự tuyệt đối của Thiên Chúa Giáo: Có một ông thánh (Augustin?) cứ
suy nghĩ măi mà không hiểu được điểm hợp lư (logic) của điều “Ba Ngôi Một
Chúa”. Một hôm, ông đi đi lại
lại hằng mấy giờ trên băi biển, suy nghĩ liên miên, nhưng cũng không hiểu
được. Bỗng ông để ư thấy có
một đứa bé cứ ngồi lấy cái vỏ ṣ múc nước đổ vào một cái lỗ cát, rất
lâu. Bèn hỏi, em bé
đáp: Em múc cho hết nước biển
vào trong lỗ. Ông thánh kêu
lên: Em ơi, làm sao mà hết
được! Đáp: điều em làm khó,
nhưng có thể được hơn là điều mà ông đang suy nghĩ trong đầu! Nói xong em bé biến mất, v́ đó
chính là một thiên thần.. Nhưng phần mà những kẻ thanh-giáo ngoại-thần, bàng-môn tả-đạo như tôi (và hầu như tất cả mọi người trong lớp) rất thích là “phần đời ” của các bài giảng. Tôi vẫn cho rằng chính phần này là những điều lớn nhất chúng tôi đă học được ở thầy trong hai năm Ngũ-Tứ. Tôi nghĩ các bạn cùng lớp với tôi, cho đến ngày hôm nay, vẫn công nhận rằng chính những điều thầy đă dạy lúc đó đă, đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến những suy nghĩ của ḿnh. Những bài
này đều là công tŕnh của thầy đă sưu tập và tuyển chọn ra từ nhiều nguồn
sách vở khác nhau. Chúng tôi
đă nghe đến say mê, ngay cả
bây giờ, tôi cũng c̣n nhớ được lời Quản Trọng: · Hoàn Công cùng tả hữu dạo chơi đến vùng nọ, có gặp một người tên là Ngu. Hỏi sao lại là Ngu, người đó đáp: Nguyên tôi có một con ḅ, sinh ra một con bê rất đẹp. Tôi đem đổi lấy một con ngựa con, cũng rất đẹp. Ngày nọ, có một thiếu gia công tử đi ngang, bảo ḅ không thể sinh ra ngựa được, nên lấy cớ đó bắt con ngựa đi. Tôi không biết làm sao, trơ mắt mà ngó. Bởi vậy thiên hạ gọi tôi là Ngu. Hoàn Công cười lớn: Như vậy th́ ngu thật ! Quản Trọng tái mặt: Tâu Chúa Công, đây là lỗi của thần. Thần được giao cho trông coi giềng mối trong nước, vậy mà để xảy ra như thế. Thiếu niên công tử kia dám sang đoạt của người ta giữa ban ngày chắc phải là con cái nhà quyền quư nào đó. Con người ta ai lại không tiếc của, nhưng ông lăo không dám kiện là v́ biết cô thế, xưa nay huyện bênh huyện phủ bênh phủ, thấp cổ bé miệng, kêu ca vào đâu. Đành chịu tiếng ngu cho yên thân, cũng khổ tâm lắm. Hoàn Công hối hận, bảo:
Quả nhân đức bạc, mới có thế này! Trong các giờ giảng vào mỗi buổi sáng, chúng tôi vẫn thường được nghe những chuyện như thế, bây giờ giấy viết đâu tôi kể lại cho hết? Nhưng tôi chắc chắn tất cả học sinh của thầy đều có thể nhớ rơ những chuyện Hàng Mẫu Kim Cương, Chim Uyên Sồ, Ngọc Bích Nước Triệu, Phù Sai tha Câu Tiễn, Khoái Triệt khuyên Hàn Tín, Liêm Pha và Lạn Tương Như, vv... Những sách đă dùng, sau này thầy cho tôi, nên tôi nhớ được nội dung, xin kể lại một ít: · Con ngựa của vua Tề chết, vua giận, truyền chém người giữ ngựa. Án Tử xin: Chết vậy sẽ không phục, cho tôi nói đôi lời. Vua thuận. Án Tử nh́n người giữ ngựa, bảo: Ngươi có ba tội rất lớn: Vua giao cho mà không cẩn thận, để ngựa chết, đó là một tội. Con ngựa đó lại là con ngựa rất quư của vua, đó là hai tội. Để cho vua v́ quư ngựa mà phải giết người, làm cho cả nước ai cũng oán vua, chư hầu nghe chuyện ai cũng cười vua, đó là ba tội. Vua Tề lật đật khoác tay lia lịa: Thôi, Cô Gia hiểu rồi, tha cho nó ! · Vua hỏi: Quả nhân không từ chối được nữ sắc, có giữ được nghiệp lớn không? Quản Trọng đáp: Không sao, miễn Chúa Công giữ cho được ba điều: Một là yêu con nhỏ của người như con nhỏ của ḿnh. Hai là biết nghe phải trái, khi làm ǵ th́ nghĩ chuyện có đáng làm đến thế không. Ba là giữ chữ tín trong lời nói, chữ minh trong luật lệ. Trăm họ cảm phục th́ sự nghiệp lâu dài. Thầy c̣n
đọc các chuyện trong những tác phẩm của Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Duy Cần,
Sơn Nam, Nguyễn văn Tạo, tạp chí Bách Khoa vv... Trong số những kho tàng
đă kể có cả bài thơ của Rudyard Kipling (bài dịch). Phải nói đây là món quà quí thầy
cho, mang theo măi bên ḿnh từ ngày xa trường cũ: Nếu con thấy cả cơ đồ tan vỡ Nếu con biết yêu đương không mê mệt Nếu con biết được, ḷng đâu sá kể Nếu con biết thân dân, không tự hạ Nếu con biết suy t́m và hiểu nghĩ Nếu con biết cương minh, không nóng bướng Nếu con biết coi thường điều thắng bại Được như thế, nào thánh minh, thiên tử Có lẽ về
sau này mọi sự khác với lúc trước, nhưng tôi cho rằng chương tŕnh học của
hai lớp Ngũ-Tứ của thưở ấy rất quan trọng cho sự phát triển về lối suy
nghĩ của học sinh . Chính ở hai năm này, học sinh bắt đầu được làm quen
với quan niệm sống của người trí thức Việt Nam theo truyền thống (Nho
Giáo). Cao Bá Quát là một tiêu biểu. Quan niệm của Nho gia được cụ ghi lại rơ rệt: Những khó khăn ở đời chính là thử
thách của tạo hoá trước khi được giao trọng trách, và con người phải hiểu
như vậy để biết cố gắng vượt qua nghịch cảnh: Ngất ngưởng thay con tạo khéo cơ cầu [Lẽ Cùng Thông] Cụ Nguyễn
Công Trứ là một tiêu biểu thứ hai.
Trong gịng văn học cũ của nước ta, không có ai có thể nêu rơ sứ
mệnh của “ kẻ sĩ ” rơ ràng như cụ : Xe bồ luân dù chưa gặp Thang Văn [Kẻ Sĩ] Dĩ nhiên
việc t́m hiểu về hệ tư tưởng truyền thống Việt Nam là những điều không nằm
trong các năm này. Nhưng phải
nói cái mầm cần thiết được gieo là từ thưở đó, cũng như lịch sử buồn vui
của đất nước cũng đă được gieo mầm từ ngày c̣n ở trường tiểu học xa xưa
(và lập lại mỗi năm suốt thời trung học). Trong hai năm này cũng có một vài việc khác đáng ghi nhớ. Thứ nhất là việc thầy tôi có làm một “Thư Viện” riêng cho mấy lớp chúng tôi. Đây là cố gắng riêng của Thầy, v́ trường tuy thế mà ... không có thư viện! Thứ nh́ là việc học về “sinh lư ” (sex education). Trường tập hợp học sinh của nhiều “lớp lớn” lại để cùng nghe giảng chung. Chúng tôi kháo nhau để xem người giảng là ai, nhưng đó cũng lại là một ... sư huynh! Sau này mới biết được là ở các nước khác trên thế giới người ta dạy học sinh cách giữ ǵn sao cho đừng có “hậu quả không hay”, nhưng hồi đó điều chúng tôi được giảng là ... nên cố gắng tiết dục (!). Nói cách khác là ráng đừng buông thả để nghe theo những thúc dục bậy bạ của cái cơ thể đang ... tuổi thanh xuân ! * Thời gian qua nhanh, đến cuối năm Đệ Tứ, mùa Thi đă chờ sẵn (việc thi Trung Hoc Đệ Nhất Cấp sau này mới bỏ, thời chúng tôi th́ c̣n phải thi). Thầy tự động mở một lớp “luyện thi” về ban đêm – chủ yếu là dạy Toán cho những ai thấy cần học thêm. Ư Thầy là muốn kèm cho những người cần “thêm sức”, nhưng đa số học viên lại là những tay vốn siêng năng ở trong lớp. Dạy ban ngày rồi lại dạy ban đêm, chương tŕnh kéo dài đến cả mấy tháng, nhưng thầy vẫn vui vẻ. Tuy Thầy bận rộn, nội dung của những buổi học ban ngày – kể cả những bài giảng “phần đời ” mà chúng tôi yêu thích – vẫn không bị suy giảm chút nào. (Thầy dạy Toán và Vật Lư rất hay, cách giải đáp của Thầy bao giờ cũng ngắn gọn hơn cách trong sách giáo khoa. Nhờ đó hầu hết tất cả chúng tôi đều xem Toán và Vật Lư là hai môn “dễ nuốt”). Mỗi đêm,
chúng tôi học từ bảy đến chín giờ.
Có một điều Thầy không bao giờ biết là khi học xong, những chú nhóc
t́ như tôi th́ cắm cổ đạp xe về nhà, c̣n các bạn lớn tuổi hơn th́ to nhỏ
với nhau rồi kéo đi hẹn ḥ gặp gỡ ǵ đó. Mấy chàng im re v́ sợ bọn nhóc hé
môi ra lỡ Thầy biết, tôi chỉ biết lờ mờ là “có ǵ lạ” mà thôi. Thưở đó tôi chưa bước vào cái lúc
“đến tuổi rồi ” như các bạn đó để thấy cần những chuyện như t́nh yêu, bạn
gái ... Những ổ bánh ḿ thơm ngon mời mọc bán ở quán Hương Lan và Nguyễn
Văn Ngăi trước Bưu Điện, hay những ly nước ngọt có đá lạnh, uống vào thấy
mát tận tim can t́ phế thận sau những lần chơi bóng rỗ vào buổi chiều
vv... vẫn hấp dẫn tôi hơn.
T́nh yêu c̣n là một cái ǵ mơ hồ, xa tít; không quan hệ tới ḿnh,
có hiện diện chăng cũng chỉ nằm trong những câu hát diễu cợt để nghêu
nghao đỡ buồn: Anh ơi nếu mộng không thành th́ sao? Nói như
thế không phải là những đứa thuộc loại nhỏ tuổi hơn như tôi hoàn toàn
không thích “phe kia” chút nào cả.
Những lần trường có buổi tŕnh diễn chung với các trường nữ như
Thiên Phước, Regina Pacis, Thánh Linh vv..., chúng tôi cũng lăng xăng lắm
chứ. Nhưng các cô cứ tỉnh
queo mà “nh́n ta như thể nh́n ... cái cột đèn! ”. Sau đó, đọc Liên San, nghe kể lại khi chúng
tôi xông ra chụp h́nh (h́nh đám đông chung chung !), cũng có nhận được
“ánh mắt khuyến khích của các đương sự ”, bọn chúng tôi rất hoài nghi sự
nhận xét vu vơ này của mấy anh phóng viên cà chớn! Bây giờ nh́n lại, tôi nghĩ là văn
hoá Việt Nam thời đó, với ảnh hưởng Nho Giáo nghiêm khắc của nó, đă làm
cho t́nh yêu đến chậm ở người học sinh (so sánh với các nước Âu Mỹ ). Những ngày tháng đó, khái niệm về
t́nh yêu c̣n mông lung xa vời lắm.
Ước mơ c̣n rất lăng mạn, c̣n quá lư tưởng kiểu con trai mới lớn,
nhưng thật nên thơ: Nhiều khi, nh́n trời sao chiếu thần tiên [Hoàng Trọng: T́m Một Ánh
Sao] Hè đến ! Lớp học ban ngày, và ban đêm, cùng chấm dứt một lượt. Xa bạn, tôi không buồn ǵ cả, v́ biết độ 2-3 tháng sau là đám quỷ chúa ma vương này lại sẽ lục tục kéo nhau trở lại. Nhưng tôi buồn phải xa thầy tôi, v́ Thầy sẽ đi xa, không dạy chúng tôi vào năm sau. Buổi cuối cùng của lớp học đêm, Thầy bước vào với hai đề Toán cầm sẵn trong tay, nhưng thầy tṛ nh́n nhau bịn rịn nên không học hành ǵ được. Thầy đưa cho tôi hai bài đó, tôi cất thẳng vào cặp, không buồn liếc qua xem nó như thế nào. Tṛ chuyện một hồi, rồi thầy tṛ chia tay, thấy ḷng ḿnh cứ như ở trên cao khi bước ra khỏi cổng. Con đường về nhà sao mà quạnh quẻ! Đêm Sài G̣n mát lạnh, tôi cúi đầu đạp xe đi lầm lũi, không thấy phố, chẳng thấy nhà ... Kỳ thi năm
đó, đám “dân học đêm” chúng tôi đều qua được hết. C̣n ở tuổi ngu ngơ quá, cả đám
không có đứa nào biết bảo nhau làm một cử chỉ ǵ đó, cùng nhau t́m một bó
hoa chẳng hạn, để biếu Thầy! * Qua mùa Hè, hầu hết bọn chúng tôi trở lại trường để lên lớp Đệ Tam, đứa nào cũng chuẩn bị để có một năm học “ lè phè ”, không lo lắng. Bây giờ to xác thêm một chút, vậy mà không ai thèm học, dĩ nhiên chuyện phá phách phải nhiều hẵn ra. Nói chung th́ đối tượng (của những phá phách) cũng không ai khác hơn là thầy và bạn. Với thầy dạy Hoá Học ư? Thầy hay ngồi tréo chân, để hở đôi vớ lỏng lẻo. Có ngay đứa mang vào một thứ ǵ nhỏ như hạt cỏ, lén bỏ nhẹ vào vớ thầy. Hạt khô thấm mồ hôi th́ nổ, ông thầy giật thót ḿnh rút chân lại, chả hiểu v́ sao! Với thầy dạy Vạn Vật ư? Thầy cho chuyền nhau xem những loại đá Hoa Cương, Thạch Anh, vv... Mới được chốc lát là chúng được tráo đi với đủ loại khác, kể cả đất khô, đá ong, gạch vụn, vv... vừa mới được lượm vô từ sân trường hay băi cỏ. Với thầy dạy Việt Văn ư? Thầy chép lời hay ư đẹp lên bảng. Hôm sau, hàng chữ đă có bàn tay bí mật nào sửa lại: Ngọc bất trác bất thành khí Hết thầy
đến bạn, và chỉ có mấy cái “bí danh” thôi mà bao nhiêu kẻ đă phải ngậm mà
nghe, không biết đến bao giờ. Tên xấu tốt không cần,
miễn sao nghe “hợp lư ”, hoặc làm cho cả lớp cười được, là dính. Một chàng nọ than với anh em buồn
ngủ quá. Hỏi tại sao, bảo
“phải đi gác Ấp Chiến Lược”.
Thế là hắn lănh ngay cái bí danh “Ấp Chiến Lược” rất oan uổng. Một
chàng, tóc phía sau có vài sợi hơi bạc, bèn được gọi “Ông Già”. Chàng khác, nước da hơi ngăm ngăm
một chút, bị dính cứng vào cái tên “Fulro ”. Khi đă bị cả lớp “ban cho” một bí
danh ǵ đó, đừng ḥng căi chính hay vùng vẫy ǵ cả. Càng vùng vẫy th́ càng dính, trời
cũng không cứu được. Tṛ th́
như thế mà sư huynh phụ trách lớp lại cưng, cho nên cứ như cá gặp
nước. Thậm chí có nhiều
nghịch ngợm của chúng tôi bị Giám Học rầy rà hay đặt thành vấn đề đều được
sư huynh bao che êm thắm cả.
Cách làm là trước khi đối phó với Giám Học, cả lớp họp “Hội Nghị
Diên Hồng”. Thầy tṛ cùng
nhau bàn bạc, rồi nghĩ chung cách giải quyết. Kết quả là anh em tự đặt ra giới
hạn cho ḿnh, và theo những mực thước ... vừa phải ! Thầy chúng
tôi có lối suy nghĩ của đường hướng giáo dục Pháp lúc đó. Thầy vẫn nói: “Các anh là élites, phải sống xứng đáng như
thế ”. Thầy làm chúng tôi
hănh diện. Khi có ǵ làm
không được chu đáo, Thầy bảo: “Cách giải (hay cách làm) không khó, v́ các
anh không đủ siêng năng. Ḿnh
không có tệ như vậy”. Dĩ nhiên “cổ động tinh thần ” vẫn chưa đủ để làm lặng yên những tâm hồn phiến loạn. Cần phải có thêm thứ ǵ khác “cho chúng nó khỏi nhàn cư vi bất thiện”. Đó là những việc như thể thao, làm Bích Báo, và những chuyện nho nhỏ . “Nho nhỏ” như chuyện làm hang đá vào dịp Giáng Sinh chẳng hạn. Thầy bảo phải làm sao thể hiện được việc chúng tôi học ban toán, nếu không th́ cái hang đá nào cũng như nhau. Với lứa tuổi lúc đó, đây là một vấn đề hóc búa, nhưng rốt cục chúng tôi cũng làm được một “hang đá Toán”’ với cái nền là một cái nón chúc đầu xuống (h́nh nón), những mái che bằng h́nh tam giác “ê-ke” đan xéo nhau, cái “phông” phía sau là nửa ṿng tṛn, những ô h́nh vuông và h́nh chữ nhật. Giáo sư Toán vào lớp thấy thế, khen “anh nào có sáng kiến quá”. Thực ra đó là sáng kiến của Thầy, và cách làm cũng là của Thầy. Việc làm Bích Báo, anh em được chia làm bốn đội, mỗi đội phải ra tờ báo trong ṿng hai tháng. Đội của tôi cho ra mắt tờ Rạng Đông vào lúc ... ba giờ chiều (!) một ngày Thứ Hai. Chắc là cũng chỉ toàn những ǵ vớ vẩn, nhưng trong đó có bài “Màu Hoa Mimosa” của bạn Giao viết khá hay. Truyện nói về một mối t́nh đầu, h́nh như rồi cũng không đến đâu (như bất cứ mối t́nh đầu nào khác). Tôi c̣n nhớ được một phần của câu cuối: “Như những cánh Mimosa màu vàng hoàng hậu”. Chỉ có hai đội ra được báo, và đó là hai số duy nhất, rồi chuyện báo ch́m vào quên lăng. Năm đó, năng lực của cả lớp hầu như tập trung vào cuộc tranh giải vô địch bóng rỗ với “liên quân” của hai lớp Đệ Nhị. Lớp chúng tôi may mắn có đủ nhân số cho một đội bóng, trong đó có Quang và Trung là hai con rồng vàng cừ khôi. Cả Quang lẫn Trung đều ném banh rất chính xác, và có những “tuyệt kỹ ” riêng. Quang có chiêu “phi long tại thiên ” oai chấn giang hồ . Mỗi lần Quang đưa banh vào cấm địa của địch, đối phương kéo quân về vây lấy Quang sát rạt. Khi đó Quang ráng vào sát mục tiêu, nếu đối phương có kẻ hở, Quang “làm bàn” ngay; nếu bị cản trở, Quang sẽ đưa banh ra và nhảy lên như muốn chuyền cho đồng đội. Nhưng không phải thế! Khi thân h́nh c̣n lơ lửng trên không, Quang sẽ xoay người 180 độ, và thẩy nhẹ một cái, trái banh bay vào rỗ gọn bâng trong tiếng ḥ reo vang dậy của “ba quân lớn nhỏ trong ngoài ”. Trung th́
cao dong dỏng, và lanh như một con báo. Mỗi lần vào cấm địa của địch,
Trung lách bên này, né bên kia, đối phương chưa kịp đoán ra ư của Trung
th́ Trung đă sà thấp xuống, và từ dưới thấp, đưa bàn tay mặt vuốt trái
banh lên ngọt xớt. Nó bay
theo nửa ṿng cong, rồi đi gọn vào trong rỗ, ngọt ngào! Mấy em bé ở những lớp Tiểu Học mê
ngón “tiềm long quyển địa ” này
của Trung lắm, nhiều lúc chạy ùa cả ra sân để vỗ cho được vào người
Trung! Nhưng “người lành trời phụ ”, lần đó chúng tôi thua! Chờ cho mọi sự yên lặng xuống một chút, thầy tôi phân tích: Họ chơi với ḿnh lâu nên biết nhau rơ quá – đợi Quang xoay ḿnh xong mới nhảy lên đập vào banh, chỉ cần đụng nhẹ là đường banh lệch quỹ đạo. Trung th́ họ kềm sát, luôn luôn giữ thế thủ. Họ giữ cho không thua nên thắng. Chúng ta cố thắng, nên thua. * Thời gian
thấm thoát, những ngày tháng hồn nhiên của năm học Đệ Tam cứ thế trôi qua.
Đầu mùa Hè năm đó, tôi về thăm lại xứ Huế. Có đi xe lửa mới biết quê hương có
nhiều cảnh đẹp, ví dụ như ḥn đá Vọng Phu đứng chơ vơ trên núi, tay bồng
con chung thủy đợi người về – hay những băi biển nhỏ cát trắng đi viền
theo làn nước trong xanh, có những rặng thông già bao quanh kín đáo (làm
nhớ chuyện những nàng tiên xinh xinh xuống tắm, rồi có một nàng bị người
trần thế giấu cánh đi). Khi
xe đi sâu vào vùng đồi núi miền Trung, có những cây leo hoang dại ửng ánh
trăng cho ta thấy được cả một tấm thảm bạc bao la đang trải lên suốt một
vùng thiên nhiên bát ngát... Xe qua vùng đất đỏ, cây cối thực tốt
tươi. Qua Quảng Ngăi, nước
sông Trà Khúc trong veo, cái máy quay nước trên sông chuyển ḿnh chầm chậm
làm rơi xuống nhiều tia nước bạc ... Với cái
tuổi của tôi lúc đó, Huế không phải là sông Hương núi Ngự hay Hoàng Thành
lăng tẩm ǵ cả. Huế là mấy
đứa bạn “quen nhau từ thưở trọc
đầu”, là những nơi chốn ngày xưa quen thuộc. Hàng cây muối trên đường Nguyễn
Hiệu, mới vừa đủ lớn ngày tôi đi, nay đă trở thành những ông khổng lồ
nghều nghệu. Tôi t́m lại được
cảnh hàng trăm con chuồn chuồn vàng, chuồn chuồn đỏ đậu đầy cả mấy dăy
hàng rào. Những cây chuối
xanh tươi vẫn thế, khi trời mưa, khẽ kéo bẹ chuối ra một chút là có thể
thấy được một chú nhái xanh lè hoảng hốt nhảy ra. Cây đào trong góc vườn vẫn c̣n đó,
lá vẫn xanh um. Nơi góc vườn
này, mỗi năm khi nước lụt dâng lên, mọi người vẫn chạy ra xem chừng ở đó
trước nhất (v́ nước lụt dâng lên từ chỗ thấp). Trường tiểu học Trần Quốc Toản của
tôi vẫn c̣n đó. Tôi không vào
trong sân để nh́n đủ mọi chi tiết nhưng biết chắc nơi đó vẫn có những em
nhỏ, áo quần chân tay lấm đầy đất cát, đang say mê chơi với những ḥn
gạch, viên bi ... Trẻ con xứ
Huế không có nhiều đồ để chơi nên những ḥn gạch viên bi kia chính là niềm
hạnh phúc. Đi học, chơi đùa
với bè bạn, khi về nhà được cho cái kẹo, đốt mía, quây quần bên cha mẹ, đó
là niềm hạnh phúc, là sung sướng, ai mong chi những chuyện xa vời
! Nhưng tôi
làm sao biết được, cũng ngay từ thời điểm đó, màn đen đă từ từ bao trùm
lên xứ Huế nói riêng, và đất nước tôi nói chung. Măi cho tới khoảng 40 năm sau, khi
tôi đă bỏ công nghiên cứu rất nhiều về lịch sử của một giai đoạn xáo trộn,
tôi mới thấy được cái phần lớn của cả một bức tranh, những điều mà khi c̣n
là một thiếu niên về thăm Huế vào cuối năm Đệ Tam tôi đă không bao giờ ngờ
nó lại như thế. * Tất cả mọi
sự bắt đầu ở Washington: tổng
thống Mỹ Kennedy mong được tái đắc cử trong năm 1964. Nhưng trên mặt đối ngoại, từ vụ đổ
bộ hụt ở Cuba cho đến vụ Nga phong toả Berlin, rồi chịu nhận giải pháp
trung lập ở Lào, rồi bức tường Berlin, Kennedy gặp thất bại liên
tiếp. Để có lại uy thế,
Kennedy muốn chứng tỏ cho mọi người thấy ông ta cũng có thể làm được việc.
Kennedy biết nước Mỹ cũng sẽ bị tiêu diệt nếu có đụng độ lớn, chạm trán
nguyên tử, cho nên chỉ có thể “làm mạnh” trong khuôn khổ một chiến
trường giới hạn, và đó là
Việt Nam. Muốn thế, phải cần
tổng thống Ngô Đ́nh Diệm “yêu cầu” quân Mỹ vào đánh trực tiếp, và chính
phủ Diệm phải hữu hiệu hơn, nghĩa là có được sự ủng hộ của “số đông quần
chúng”. Theo nhiều viên chức
cao cấp của Kennedy, ông Diệm chỉ dựa vào tín đồ Thiên Chúa Giáo – đó là thiểu số, c̣n “số đông” là
số tín đồ Phật Giáo. Đây là một
vấn đề nan giải cho tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Trước hết, ông là một người rất
ngoan đạo, và rất vị nể giám mục Ngô Đ́nh Thục. Ông lại coi trọng vấn đề chủ
quyền, ngay như cố vấn Mỹ không thôi, ông cũng không muốn để họ sang nhiều
quá. Cả ông Diệm lẫn ông Ngô
Đ́nh Nhu cũng đều thấy được thế nào là viễn ảnh của hàng đoàn quân viễn
chinh Mỹ ào ạt đổ vào để
“b́nh định” xứ Việt Nam. Cho nên, khi ông Diệm nói “không”, người Mỹ cúp viện trợ. Ông Nhu bí mật nói chuyện với Hà Nội để t́m một lối thoát: sẽ có đ́nh chiến, có một liên bang Bắc Nam sống chung hoà b́nh với sự ủng hộ của nước Pháp, giới lănh đạo của mỗi miền sẽ tiếp tục nắm chính quyền, Hà Nội sẽ từ chối viện trợ của Trung Quốc, Sài G̣n sẽ chính thức yêu cầu Mỹ chấm dứt viện trợ, và rút hết cố vấn quân sự. Mỹ không chịu vậy. Kennedy dứt khoát: ra lệnh tiến hành âm mưu lật đổ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. (1) Thực hành ra sao th́ chỉ là phương cách hành động. Huntington, chiến lược gia số một của Mỹ vẫn thường nói: Đảo chính ở các nước chậm tiến không khó, chỉ cần vài chiếc xe tăng! Người Mỹ tin là họ sẽ làm được việc họ nghĩ. Ngày trước, họ đưa ông Diệm lên, tạo dựng mọi sự cho ông. Nếu đă thành công được với ông, th́ họ cũng sẽ thành công được với người khác! Kennedy là người của đảng Dân Chủ nên quyết định giao “việc phải làm” đó cho một rường cột của đảng Cộng Hoà (để có thành công hay thất bại ǵ th́ cũng không bị chỉ trích). Người đó là Henry Cabot Lodge Junior. Ông này chỉ qua Sài G̣n nhậm chức Đại Sứ khi “vấn đề Phật Giáo” của chính phủ Diệm đă gay go đến độ chín mùi. * Trước khi
tôi về Huế, ở thành phố vừa mới có lễ lớn – cờ xí ngập trời – mừng giám mục
Phạm Ngọc Chi, nhưng không hiểu sao tin đồn lại thành ra lễ mừng tổng giám
mục Ngô Đ́nh Thục. Dân “bên
lương” kháo nhau rằng đến ngày Phật Đản th́ “ḿnh cũng sẽ làm to như
rứa”. Dân xứ Huế vốn bảo thủ,
thế hệ này sống nối qua thế hệ khác trong cái hoài niệm về quá khứ, về “thiên kinh, địa nghĩa, thánh đạo, nho
phong”, về nỗi niềm thổn thức chuyện “khẳng khái cần vương dị, thung dung
tựu nghĩa nan”(2). Những lễ lạc ŕnh rang do
chính quyền trực tiếp hay gián tiếp làm, với cờ Vatican giăng kết khắp
nơi, người ta không thích.
Nhưng Sài G̣n sống xa rời quần chúng, không hiểu được tâm lư người
Huế. Buổi chiều trước ngày Phật Đản, tôi đang hí hoáy treo cái lồng đèn dưới mái hiên th́ người hàng xóm mới đi đâu về, nói: “Gỡ xuống, có lệnh cấm. Ở ngoài phố, cờ đèn ǵ đều gỡ cả, không được treo”. Tôi ngạc nhiên nhưng cũng gỡ xuống, ḷng thấy không vui. Tối đó tôi ra phố đi “xem hội” với bạn bè (ở Huế không có bao nhiêu dịp vui, cho nên những lúc như lễ Phật Đản, Giáng Sinh, người ta hay ra phố xem đèn đuốc), thấy có những em bé trong các đoàn Phật Tử sắp hàng đi biểu t́nh, hô khẩu hiệu phải cho treo cờ Phật Giáo. Một chiếc xe phát thanh chạy đi chạy lại loan báo là không có cấm, nhưng loa kêu rất nhỏ, không oang oang như b́nh thường. Sáng hôm sau, tôi đă trở lại Sài G̣n, biết đâu được ngay chiều hôm đó ở đài phát thanh Huế lại có vụ nổ. (3) Rồi không
bao lâu sau đó th́ ở Sài G̣n có việc hoà thượng Quảng Đức tự thiêu. Cả nước rúng động, thế giới rúng
động. Lúc đó, tôi cũng thấy bất
b́nh với chế độ ông Diệm. (Tôi lớn lên trong giai đoạn thành h́nh của chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Từ khi tôi c̣n là trẻ con, những bài hát tuyên truyền về “cụ Ngô ” có ảnh hưởng lớn trên nhận thức – tự nhiên có cảm t́nh với “cụ”. Nhưng vụ cấm treo cờ và việc nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam quyên sinh là hai điều đă làm cho tôi có ấn tượng xấu về tổng thống Diệm. Sau này, khi nghiên cứu về quan hệ giữa nước ta và Nhật Bản tôi mới biết thêm về ông Nguyễn Tường Tam, nhưng lúc 1963, đối với tôi ông chỉ là nhà văn Nhất Linh, người sáng lập Tự Lực Văn Đoàn, tác giả của “Đi Tây”, là Dũng của Loan trong Đoạn Tuyệt... Làm cho ông phải tự vẫn là việc không cần thiết. Ông không chống chính quyền bằng vũ lực, tại sao phải đẩy ông đến như thế? Chuyện này, cũng như việc cấm thiên hạ treo đèn treo cờ để mừng một ngày lễ, cũng là điều không cần thiết, rất kém về chính trị. Quần chúng bao giờ cũng đ̣i hỏi nhà cầm quyền phải biết phải trái. Điều cơ bản nhất của mọi thời đại vẫn là việc nhà cầm quyền phải trả lời được câu hỏi “tại sao”). Những ngày tháng kế tiếp là những ngày cả thành phố Sài G̣n sống với đủ thứ tin đồn. Bây giờ nh́n lại, khi biết được rằng mọi sự đều là chính trị, tôi hiểu được tại sao thưở đó ḿnh giao động một cách dễ dàng như rất nhiều người khác. Tuy nhiên, tôi c̣n nhớ là thiên hạ cũng có đồn rằng trên mai những con cua bỗng dưng có h́nh Phật Bà. Trong nhà có mua thử vài con về xem, nhưng chả thấy ǵ. Một hôm nọ, thiên hạ trong xóm tôi bỗng ùn ùn kéo nhau đi xem “đám mây trên trời có h́nh Phật Bà ”. Tôi theo đoàn người đang hăng hái chỉ trỏ để xem thử, chỉ thấy trời cao xanh ngắt, mây trắng lửng lơ, không ǵ khác lạ. * Mùa hè với
nhiều mây xám chính trị trôi qua, chúng tôi trở lại trường để lên lớp Đệ
Nhị, nhưng chuyện học hành cứ như dậm chân tại chỗ v́ những biến động
. Những khi ở ngoài sân hay
trong lớp, câu chuyện nói với nhau cũng chỉ xoay quanh các biến chuyển dồn
dập hằng ngày. Học được vài
bữa th́ có “vụ chùa Xá Lợi”, dư luận xầm x́ là tối hôm đó, bà Nhu mặc quân
phục, đến trực tiếp chỉ huy.
Không rơ thực hư ra sao nhưng những lời tuyên bố của bà Nhu thủy
chung chỉ đổ thêm dầu vào ngọn lửa nhân tâm đang phừng phực cháy. Kennedy không mơ ước ǵ
hơn! Không được vài tuần sau, một buổi sáng nọ, chúng tôi vào trường th́ đă thấy lính Thủy Quân Lục Chiến đóng đầy trong đó, có lẽ để pḥng ngừa học sinh biểu t́nh. Hai bên nh́n nhau, t́nh quân dân không thấy ǵ đằm thắm! Có lẽ để tăng thêm “quân uy”, một khẩu đại liên, có gắn sẵn một băng đạn mới toanh, đă được bố trí cẩn thận trên một chỗ cao, oai phong lẫm liệt (Không hiểu ai ra lệnh này, nhưng dĩ nhiên người có trách nhiệm tối cao vẫn là ông Diệm. Với 1 đám học sinh c̣n non choẹt, có lo sợ đi nữa th́ cỡ một tiểu đội cảnh sát tới cho có lệ là đủ, cần ǵ Thủy Quân Lục Chiến với đầy súng ống và đại liên? Đem súng vào trường học, lỡ có ai táy máy làm súng nổ người chết th́ rắc rối to). Nhưng sau đó, khi tất cả học sinh sắp vào lớp, chỉ có một tràng những tiếng ồ vang lên, rồi ... hết. Hôm sau, đám lính cũng rút êm. Tuy nhiên,
ở các trường khác th́ t́nh h́nh không yên tĩnh, cho nên có những lúc tất
cả các trường học ở Sài G̣n đều phải đóng cửa. Vào một sáng Chủ Nhật, anh bạn “nải chuối” bỗng đến gửi xe lại ở
nhà tôi, bảo sắp đi biểu t́nh.
Bốn năm ngày sau mới thấy chàng trở lại, người có vẻ phong
sương. Hỏi ra sao, đáp: Bị hốt lên xe nhà binh, họ chở
thẳng lên Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Đă được phát quân phục, nhận số
quân và chụp h́nh đàng hoàng, mỗi ngày hai lần ra băi để tập chào và đi
ắc-ê, vv... Có gặp hai đứa
cùng lớp ḿnh, c̣n dân La-San tuy không đông lắm nhưng cũng đủ để tụ lại ở
chung với nhau. Chiều chiều
cả đám đứng nh́n qua hàng rào kẽm gai, thấy trẻ con chơi xích đu ngoài
kia, mới biết h́nh ảnh của sự tự do như thế nào ... Qua ba ngày th́ được thả về hết,
hú vía, đă tưởng cứ thế rồi sẽ nhận súng, tập ḅ tập bắn trong vài tháng,
rồi ra trận ... Đêm nằm thao
thức, cứ nhớ nhà, và nghĩ đi nghĩ lại chuyện: Nặng nề thay hai chữ “quân nhân” [phỏng thơ Nguyễn Công
Trứ]
Ngày 1 tháng 11-1963, việc Kennedy muốn đến đă đến: Một số tướng tá họp thành “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng”, ám sát tư lệnh Hải Quân và chỉ huy trưởng của Lực Lượng Đặc Biệt, rồi tiến hành cuộc đảo chánh. Có đại tá CIA Lucien Conein ngồi trên ghế của tổng tư lệnh ở Bộ Tổng Tham Mưu để chỉ huy, c̣n tổng thống Kennedy th́ giám sát từng diễn biến của t́nh h́nh từ ṭa Bạch Ốc. Ông ta gửi điện dặn đại sứ Lodge: “when we go, we must go to win” (khi đă làm th́ phải thắng!). Để chắc ăn, Kennedy để các lực lượng xung kích Mỹ hờm sẵn ngoài ven biển Việt Nam, với đủ khu trục hạm, những phi đội trực thăng chiến đấu, và tất cả các phương tiện hiện đại nhất để chuyển quân khi tác chiến (quân xa, giang đỉnh, tàu đổ bộ, xe tăng và thiết vận xa) vv... Từ hai ngày trước (30-10), Thủy Quân Lục Chiến Mỹ ở Okinawa cũng đă súng ống sẵn sàng. Tất cả có lệnh là nếu phe đảo chính không thắng được th́ sẽ đổ ào vô Việt Nam để đánh lui bất cứ đội quân nào trung thành với tổng thống Diệm. Kết quả là tổng thống Diệm và ông Nhu bị giết, “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng” được nắm quyền. Người Sài G̣n tuôn ra đường như đi ăn mừng một ngày vui ǵ to tát. Vài nhóm người công kênh các tướng làm đảo chính, đám đông th́ lôi tượng Hai Bà Trưng xuống (v́ cho là khuôn mặt giống bà Nhu), nhiều đám khác th́ hân hoan chào mừng lính đảo chính, vv... Hôm sau chúng tôi đi học, sư huynh phụ trách lớp nói: “Khoan nghĩ là nước ḿnh rồi sẽ nhanh chóng trở thành văn minh như các nước tân tiến. Việc c̣n dài ”. Lúc ấy tôi không hiểu rơ ư của câu nói, nhưng thấy vui (với việc chế độ Diệm sụp) là chuyện .. tự nhiên! Đến giờ khác, giáo sư toán vào lớp, anh em nói: thầy cười đi! Thầy cười, bảo: “Hôm lính đến là ngừa các lớp Đệ Nhị, Đệ Nhất, nhưng thực sự nếu có ǵ là ở lớp Đệ Tam”. Thầy tṛ vui vẻ như có điều vui lớn. Trong cái hạn chế của mỗi người lúc đó, cứ ngỡ ḿnh nghĩ đúng, ḿnh có biết, thế mới đáng tội nghiệp. Nào ai trong chúng tôi hiểu được nhân sinh vốn là khổ hải, mà thân phận người dân một nước nhược tiểu là đại khổ hải, sinh ra là đă có “cái quay búng sẵn trên trời”. “Dân trí nước ta so với dân trí của nước Nhật, cứ như gà con so với con cắt già” lời cụ Phan Chu Trinh nhận xét khi viếng Tokyo năm 1906, vẫn c̣n rất đúng! Liên tiếp trong 12 tháng sau đó, Sài G̣n thay đổi chính quyền đến 10 lần! Dưới các chính quyền mới, vẫn c̣n có tự thiêu, vẫn có đấu tranh tôn giáo. Tướng Nguyễn Khánh nổi lên “chỉnh lư” các tướng đă đảo chính ông Diệm và gọi họ có tội “thân Trung Lập”, rồi tuyên bố “quân đội là cha” (của nhân dân!). Trong thời ông Khánh, Sài G̣n hầu như sống trong t́nh trạng vô chính phủ. Sinh viên th́ biểu t́nh đả đảo “Hiến Chương Vũng Tàu” của ông Khánh. Các đoàn thể tôn giáo cũng liên tiếp thi nhau “xuống đường”, rồi các thế lực đấu đá lẫn nhau ... ai cũng có thể đ̣i hỏi, hay “biểu dương lực lượng”. Rất nhiều đoàn người, vũ trang với gậy gộc, dao búa, gạch đá vv.. đi biểu t́nh và đập phá trong thành phố, kéo theo một số trẻ con (và nhiều người lớn ṭ ṃ). Những đoàn người này đi lại tự do, hễ có một tiếng c̣i nổi lên, và kẻ đi đầu đàn chỉ tay vào bất cứ một ai, là đám đông sẽ nhào lại “làm thịt ”. Có đoàn của tôn giáo này xông vào bộ Tổng Tham Mưu, lính gác phải nổ súng mới thôi. Có đoàn của tôn giáo kia đốt một tiệm sách ở gần nhà tôi, xe cứu hoả tới, mấy người lính chữa lửa tay cầm ṿi rồng, hỏi kỹ: Có cho chữa không? Có mấy đứa trẻ gật đầu, lúc đó nước mới bắt đầu phun ra được Cũng gần nhà tôi, có một anh Mỹ (trắng) thuê một căn nhà. Anh ta vô t́nh trở về nhà vào lúc đoàn người đang đi ngang. Thế là một tiếng c̣i thổi lên, cả đám đông xông vào. May có nhiều người chần chừ nên anh nhanh chân thoát được, chỉ có chiếc xe Honda bị đập nát và đốt cháy. Anh ta kêu điện thoại sao đó mà có mấy xe cảnh sát chạy ngay lại, ném lựu đạn cay... Đây là lần đầu tiên tôi nếm mùi lựu đạn cay. Nó làm cho không thở được, dù đă ráng hít vào rất mạnh Tôi chạy ra xa, vẫn không thở được, phải mau chân chạy xa hơn, càng xa càng tốt... Bây giờ nhớ lại, nghĩ nếu chỉ để giải tán 1 đám đông, chỉ cần vài trái lựu đạn cay là đủ. Nếu chỉ muốn giải tán ở đài phát thanh Huế trong đêm đó, lính của ông Diệm có cần tới vũ khí đâu ? * Những tháng ngày xáo trộn như thế cứ kéo dài liên miên trong hoang mang làm mọi hoạt động b́nh thường của chúng tôi mất đi cả. Những điều vui như tranh giải thể thao, văn nghệ , dự lễ lạc chung với các trường “phe kia” vv... đều hầu như không có, cứ đến trường học xong là lo về nhà liền. Những việc tôi c̣n nhớ được trong cả hai năm Nhị-Nhất không nhiều như các năm khác một phần là v́ thế. Dù sao th́
trường cũng lo cho việc học của chúng tôi rất đầy đủ. Lớp tôi có ba giáo sư dạy toán
(h́nh học, đại số và số học), môn vật lư th́ do sư huynh phó hiệu trưởng
giảng dạy. Có lúc dạy về điện, thầy nói: “sau này các con có muốn lănh giải
Nobel th́ t́m vào ngành khác, v́ ngành điện lâu đời lắm, có bao nhiêu cái
mới người ta t́m ra hầu hết rồi.
Nhưng mà thôi, ai có giải thưởng ǵ của thế giới cũng được cả, thầy
cũng mong”. Sư huynh phụ trách lớp tôi th́ đảm nhận môn văn chương. Trong những ngày tháng bên cạnh thầy, chúng tôi học được nhiều điều hay về nhận xét của người xưa, ví dụ như những câu: Minh quân lương tể tao phùng dị (Vua hiền tôi giỏi gặp được nhau tuy khó, nhưng c̣n dễ Bần cư náo thị vô nhân vấn (Có người dịch:
Khó giữa chợ nào ai hỏi đến, chẳng mua thù chuốc oán cũng thờ
ơ. Lúc đó trong lớp có một anh chàng vừa mới rửa tội. Học trường đạo mà mới “trở lại đạo” th́ rất được cưng. Một hôm, chàng ta phá phách ǵ đó, nhưng chỉ bị phạt nhẹ là … bắt lên bảng chép bài thơ của Xuân Diệu: ... Đây
mùa thu tới, mùa thu tới Trong các bài thơ thầy cho chép, c̣n có hai bài không rơ ai là tác giả, với những câu hay: …
Chết đấng nam nhi trả nợ trần Thầy c̣n giảng thêm những câu như “Thiên Ngoại Hữu Thiên” (= ngoài bầu trời c̣n có bầu trời khác), “Ư ư trung tức h́nh ư ngoại”, vv.. Câu thứ nh́ th́ dễ hiểu, nhưng câu thứ nhất, lớn rồi mới thấy, thực là thâm thúy bao la. Ngày nay, nhớ về thầy, tôi chợt hiểu được một điều mà thưở đó ḿnh không biết: th́ ra, dưới bề ngoài của manh áo tu hành nghiêm nghị, bên trong của thầy tôi là một tâm hồn đa cảm, dạt dào. Trong
khoảng những năm tôi ở lớp Đệ Nhị và Đệ Nhất, giới trẻ Sài G̣n rất thích
hai nhà thơ Nguyên Sa và Nhất Tuấn.
Hầu như ai cũng biết, ai cũng thích những bài như Cần
Thiết , Áo Lụa Hà Đông vv... của Nguyên Sa . C̣n Nhất Tuấn là nhà thơ mới
nổi. Thơ Nhất Tuấn không có
ǵ lạ – đây chỉ là một diễn
dịch ư thơ của T.T.Kh. – lộng trong một khung cảnh lăng mạn
hiện đại có đượm không khí chiến tranh. Nhưng Nhất Tuấn được yêu chuộng v́
trong những tập đầu, bài nào cũng t́nh tứ, nên thơ. Trong lớp tôi có bạn Huệ An rất
thích Nhất Tuấn và Nguyên Sa.
Những giờ ra chơi, Huệ An hay đi bách bộ với tôi, và đọc thuộc ḷng
cho tôi nghe những đoạn thơ Nhất Tuấn : Chủ Nhật nào em cũng đợi chờ Dạo ấy xuân về em nhớ không Thưở mới yêu nên mộng rất nhiều Chuyện t́nh này, chúng ta đoán được, là đến một lúc nào đó th́ tan vỡ. Để cho đượm màu thời sự, chàng th́ đi khoác chiến y, nàng vâng lời cha mẹ xuất giá ṭng … người khác! Một thời gian sau, nàng sinh con gái, viết thư cho chàng nhờ đặt hộ tên con. Chàng trả lời : Con người anh đặt làm sao được Huệ An họ Đặng, nên thích cái tên này lắm. Tôi cứ tự hỏi, sau này giá như “đầu ḷng nếu sẽ sinh con gái ”, không rơ Huệ An có đặt tên con là Diễm Kiều hay không ? Huệ An
không chỉ dừng lại ở Nhất Tuấn và Nguyên Sa. Một buổi sáng nào đó, Huệ An c̣n
giới thiệu cho tôi bài “Mộng Dưới Hoa” của Đinh Hùng (bài này về sau được
phổ nhạc): …
Ôi mộng nào hơn giấc mộng này Em đến như mây chẳng hẹn
kỳ (Về sau, khi tôi đă đi du học đâu được mấy năm th́ bạn bè viết thư cho biết là Huệ An đă tử trận. Ôi thôi, cuộc chiến lại cướp mất của tôi thêm một người nữa! Anh họ của tôi cũng đă mất, một viên đạn bắn sẻ. Đứa bạn “trọc đầu” ở bên hàng xóm vẫn đánh bi đánh đáo chung với nhau hồi c̣n tiểu học cũng đă mất, lũng ở lồng ngực! Trung “bóng rỗ ” cũng đă mất ! An “bà già” cũng đă mất! Tôi không tin ở sự công bằng của Thượng Đế . Ở đời này, cá lớn nuốt cá bé, các cường quốc đi xâm lược các nước nhỏ, rồi dựng lên một chính quyền mà họ muốn để làm như trong nước nhỏ có nội chiến với nhau. Khi con người đă trót nằm trong cái ṿng lẩn quẩn lầm than ấy, đừng mong ǵ phép lạ, đừng ḥng chọn lựa. Một hôm nào đó, bỗng dưng một tờ giấy kêu nhập ngũ hiện đến, thế là “phận trai già cơi chiến trường”. Cầm khẩu súng mà không muốn đánh, nhưng rồi lâu ngày mọi sự hoá thành quen. Tự nhiên trở thành phải tự vệ, giết hay bị giết, cái ư niệm trăm con một mẹ ấp ủ ban đầu bị thui chột dần đi, chai đá theo ngày tháng ... Vâng, xưa nay chinh chiến mấy ai về, nhưng sao cứ phải là Huệ An, là Ngọc Trung, là Hồ Phi Hành? Sao không chết đi những tên tướng tá buôn thuốc phiện lậu từ vùng Tam Giác Vàng? Hay những tên t́nh nguyện đi lính cho quân đội thực dân Pháp, sau này năm 1963 chỉ v́ vài ngàn đô la mà làm tṛ dịch chủ tái nô ? (4) ) Đặng Huệ An, tuyển thủ đoàn bóng rỗ của toàn trường, một con người hiền lành với nhiều mộng mơ cho cuộc sống, đă phải xuôi tay nhắm mắt lúc c̣n rất trẻ, c̣n ở tuổi yêu đương nồng nhiệt ... Xin cho chưa có một chị Huệ An, để đừng có một cuộc sinh ly tử biệt! Xin đừng có một bé Diễm Kiều c̣n đang chập chững, v́ Huệ An đă nằm xuống : Nay vào đời đôi chân non vấp ngă [thơ Cao Tần] * Ngày tháng
qua nhanh, năm cuối cùng rồi cũng hết. V́ c̣n một kỳ thi Tú Tài sẽ đến
khoảng một tháng sau đó nên thuở ấy không trường học nào tổ chức lễ tốt
nghiệp . Chúng tôi chia tay
nhau, rồi “rợp trời muôn vạn cánh
tung bay ”, biết đâu trong đám anh em chúng tôi, nhiều cánh chim sẽ
không bao giờ có thể bay về để ghé ngang trường cũ. Mùa Xuân năm sau, tôi đi sang Nhật Bản, một xứ tuy gần mà c̣n rất xa lạ đối với người Việt. Trong những năm tháng mới qua, từ phương xa ngó về quê hương với nhiều ái ngại: không quân Mỹ th́ tăng cường ném bom ào ạt trên đất Bắc, B-52 và thuốc khai quang rải khắp ở miền Nam. T́nh h́nh chính trị trong nước th́ rối loạn, Đà Nẵng “ly khai”, chính quyền đưa quân ra “tái chiếm” thành phố, nhiều đoàn thể tôn giáo mang cả bàn thờ xuống dưới đường để ngăn cản ... Qua báo chí và các phương tiện truyền thông của Nhật Bản, tôi biết dần về thực chất của cuộc chiến Việt Nam. Thưỏ ấy, cả nước Nhật sôi động theo cuộc chiến trên đất Việt : một bên là các đoàn thể dân chúng, sinh viên, giới trí thức, vv... Họ rất có cảm t́nh với dân tộc Việt Nam, và không nỡ nh́n một nước nghèo yếu bị bắt gánh chịu những khổ đau phi lư. Họ đặt vấn đề với chính phủ họ, hỏi tại sao nhắm mắt đi theo trong một cuộc chiến phi nhân? Bên kia là chính quyền Nhật và giới kỹ nghệ, ngân hàng, hăng xưởng. Họ sung sướng với những thu hoạch “Đặc Nhu Việt Nam”, nghĩa là những thu nhập lớn qua việc sản xuất quân dụng quân nhu, tiếp viện hậu cần vv... cho quân đội Mỹ. Dư luận báo chí Nhật Bản đần dần hướng theo những suy tư của đám đông quần chúng, đi từ vị trí nói theo chính quyền sang việc viết lách với lập trường riêng. Nhiều cựu quân nhân Nhật, thuở trước đă trải qua những khốc liệt của trận chiến Thái B́nh Dương, cũng bày tỏ cảm t́nh sâu xa với những khó khăn và sự bền bĩ kiên cường của dân tộc Việt. Trong
khoảng những năm tôi vừa xong đại học, tờ New York Times tung ra những tài
liệu mật của Ngũ Giác Đài (The
Pentagon Papers). Không
bao lâu sau đó, tôi t́nh cờ t́m được cuốn sách của Alfred McCoy, nói về
dùng Nha Phiến vào Chính Trị ở Đông Nam Á (The Politics of Heroin in Southeast
Asia). Đó là kết quả
những ǵ Thượng Viện Mỹ muốn biết:
Trong những năm khi chiến tranh c̣n ở cao độ, lính Mỹ ở Việt Nam
nghiện ma túy rất nhiều,
nhưng người Mỹ chỉ bắt đầu lo khi ma túy tràn vào xứ họ. Nhờ có điều tra, Thượng Viện
Mỹ biết rơ thêm chuyện các chính phủ của Mỹ đă tăng cường tái thiết khu
“Tam Giác Vàng” với mục đích
lập lại cuộc Chiến Tranh Nha Phiến như xưa, nghĩa là đẩy nha phiến vào
phần đất lục địa cho dân Trung Quốc nghiện ngập như hồi trước 1841. Việc thất bại, và nha phiến chạy
ngược đường, tràn qua Mỹ. Con
đường chuyển hàng là trục Vạn Tượng hay Băng Cốc, Nam Vang, Sài G̣n. Riêng ở Việt Nam, quân xa và các
phương tiện khác của quân đội như giang đỉnh, phi cơ, được dùng để chở
“hàng” đi . Tên tuổi của các tướng tá Việt Nam có quan hệ, kể cả cấp cao
nhất, đều được công bố rạch ṛi đầy đủ. Đọc cuốn sách, tôi bật ngữa. Ôi thôi, các bạn của tôi, lúc đó nhiều người đă là lính tráng. Ngoài chuyện sống hằng ngày trước mũi tên ḥn đạn, các bạn có vô t́nh bị người ta âm thầm bắt đi bảo vệ những chuyến hàng đó hay không? Nằm trong guồng máy, ai cho ḿnh biết cấp trên đang điều động ḿnh làm những ǵ ? Dĩ nhiên
những việc như trên chỉ dễ dàng khi chiến tranh càng được lên cao, mà cuộc
chiến th́ ngày càng sôi động ... cho đến khi nước Mỹ quyết định rút ra
khỏi Việt Nam . Họ dội bom,
rồi đàm phán thương lượng, rồi dội bom, rồi thương lượng. Rồi Hiệp Định Paris (1973) được kư
kết, rồi quân Mỹ rút. Hôm Hiệp Định Paris được kư kết, báo chí Nhật Bản
loan tin lớn nơi trang nhất: “Chiến Tranh Việt Nam Chấm Dứt”! Hai năm sau, chiến tranh
chấm dứt thật. Bao giờ cho hết chiến chinh [tác giả?] Nhưng chỉ có phân nửa tổng số của các chiến sĩ quay về thực sự. Những người trong quân đội Sài G̣n, đa số là những quân nhân bất đắc dĩ, chỉ có trở về một thời gian ngắn, rồi hầu hết đi vào các trại học tập cải tạo. Trên phương diện an ninh, việc cách ly số cựu quân nhân rất đông đảo đang sống trong ḷng xă hội là một chiến lược cần thiết, nhất là trong giai đoạn chiến tranh vừa mới xong. Nhưng cách ly không có nghĩa là trừng phạt, đó là điều không cần thiết. Chỉ trừ một số người có tội thực sự, đa số đều là thanh niên lớn lên ở miền Nam, bị vào lính mà không thể có chọn lựa nào khác. Để cho thêm bao nhiêu nước mắt đổ ra, thêm bao nhiêu đau thương tan vỡ sau khi hoà b́nh đă trở lại, là việc hoàn toàn không cần thiết. Đâu là điều “thương yêu con nhỏ của người như con nhỏ của ḿnh” ? * Măi bao nhiêu năm sau 1975 tôi mới trở về được. Tính ra cũng hơn 13-14 năm xa đất nước, tự nghĩ thôi ḿnh cũng may mắn hơn ... nàng Kiều ! Đến Sài
G̣n th́ đă xế chiều. Thành
phố khá trầm lặng hơn tôi nghĩ, chỉ có những chiếc loa th́ thật ồn
ào. Tôi chen ngay vào gịng
người xuôi ngược để “nghe xôn xao
tiếng Việt ở quanh ḿnh”, để t́m lại cái mùi không khí “Sài G̣n” quen thuộc mà nơi xứ
người không có. Con đường Lê
Lợi với phố xá nằm chỉ một bên vẫn c̣n đó, cái đồng hồ lớn trước chợ Sài
G̣n vẫn c̣n đó, nhà ga Sài G̣n vẫn c̣n đó ... Những ngày xưa khi c̣n đi
học, mỗi buổi sáng tôi thức dậy theo tiếng c̣i xe lửa hú khi đến bến. Bao nhiêu năm xa cách, nhưng tiếng
c̣i vẫn cứ như vọng vang trong những khi nằm ngủ. Ôi cái nhà ga cũ kỹ, hôm nay tôi
đă về đây, xin cám ơn người vẫn c̣n đứng bao năm không ṃn mỏi, chung thủy
đợi ai về ... Khoảng mười ngày sau, tôi đạp xe đạp tới trường, vừa đi vừa miên man tưởng tượng: Hẵn vẫn c̣n những em bé đọc ê a trong dăy lớp học dọc theo đường Lê Thánh Tôn? Hẵn cái sân chơi vẫn đầy tiếng hét la, đùa giỡn? Cái cổng sắt to lớn đó, chắc tôi sẽ phải đi vào phía bên trái như những lần đi học trễ ngày xưa? Hẵn các thầy cũ của tôi sẽ rất ngạc nhiên và bỏ lững buổi giảng trong giây lát để chạy ra nắm tay tôi? Rồi dần dà sẽ nói chuyện với nhau. Tôi sẽ xin nói với thế hệ sau là tương lai của một nước nằm ở lớp người 15 tuổi, không phải ở lớp tuổi như tôi hay lớn hơn. Với thầy cũ, sau những hàn huyên mưa nắng, tôi sẽ nghe được các thầy nói những bước ban đầu bao giờ cũng khó, và nước ta th́ mới qua một cơn chiến tranh như ác mộng dài. Từ bao nhiêu năm, cả hai miền xứ ta đều không hề sản xuất, thành ra Hỏi thóc đâu mà cầu Công Cẩn [thơ Phan Bội
Châu] Tôi sẽ t́m
lại những chiếc bàn cũ kỹ với nhiều dấu mực lem và vết khắc ngây ngô, sẽ
vuốt lên mặt bàn để có cái cảm giác như ḿnh vuốt ve đụng chạm được tuổi
thơ. Sẽ bước dần theo những
con đường nhỏ dưới mấy rặng cây cao để nhớ những ngày đi bách bộ với Đặng
Huệ An. Sẽ nh́n kỹ cái chuông
nhỏ vẫn hay giục giă chúng tôi vào học hay báo giờ ra về ... Sẽ t́m lại
những đoá hoa lan đất xinh xinh mọc trên băi cỏ, và sẽ Sờ ḥn đất cho tay ḿnh lấm bụi [thơ Nguyễn Hồi Thủ
] Thực ra tôi đă chủ quan quá mức: ngôi trường vẫn c̣n đó, nhưng khi tôi đến nơi “th́ đà cửa đóng then gài ”. Chỉ có phía bên kia đường, nơi một khâu của nhà Bưu Điện Trung Ương, là có người v́ thiên hạ đang chen chúc nhau lănh hàng quà từ ngoại quốc gửi về. Hỏi thăm, không một ai biết trường bây giờ đă như thế nào. Đành ra về! Đây không phải là sự việc đầu tiên. Mấy ngày trước đó, khi đi t́m bạn bè thân quen thưở trước, nhiều lần tôi đă lâm vào cảnh Hỏi nhà, nhà đă dời xa Nhưng cũng may, sau đó có người bảo tôi nếu đến trường La San Hiền Vương th́ có thể t́m được. Khi tôi đến hỏi, một bà c̣n trẻ – h́nh như là hiệu trưởng – mặc quần đen áo bà ba, cho người đi vào trong kêu một người khác. Lát sau, một vị sư huynh rất lớn tuổi xuất hiện. Chỉ cho tôi xong, ông bỗng hỏi thêm: “Thầy ấy đi tu, chắc phải có tên thánh là ǵ chứ?” Nghe tôi nói trúng, đôi mắt vị sư huynh bớt đi phần ái ngại. Thưở ấy, vàng thau lẫn lộn, ai có thể yên tâm được việc ǵ ! Rồi nhờ
đó, tôi t́m được vị thầy cũ của tôi hồi Đệ Nhị (và Đệ Nhất). Thầy đă già lắm, không c̣n cái
nhanh nhẹn của những năm xưa.
Chuyện văn hồi lâu, tôi hỏi thăm, thầy trả lời chậm răi: “bây giờ thầy chỉ dạy Pháp Văn
thôi, không được dạy Văn Chương nữa em ạ ”. Tôi nh́n kỹ thầy: cơn thử thách của thời cuộc quá lớn nên những dấu vết mệt mỏi hiện rơ ràng trên vầng trán. Thưở ấy, nền kinh tế c̣n khốn khó, đồng lương của một nhà giáo nào thấm tháp được là bao! Xưa nay, với cuộc sống tập đoàn trong trường cũ, có bao giờ thầy phải lo lắng đến những chuyện như tự ḿnh đi chợ, nấu ăn, hay tính toán về sinh kế? Bỗng dưng vật đổi sao dời, tự nhiên phải tập quen dần với hoàn cảnh mới trong một t́nh trạng vật chất thật eo hẹp, cái khó khăn như thế nào, chẳng cần phải nói. Nhưng phần tinh thần mới quan trọng. Đang là vị giám học đệ nhị cấp, nắm hết quyền điều hành chương tŕnh học cho bao nhiêu lớp cấp cao – và làm giáo sư của một trường trung học rất lớn, hàng ngày quen giảng dạy luận bàn với những lứa học tṛ đă hiểu được những ư niệm như “minh quân lương tể”, “tịch tà cự bí”, “thiên ngoại hữu thiên” vv... – nay được “lưu dụng” xuống dạy ở trường cấp dưới, đă không phải ở trong sở trường và ư thích của ḿnh đă đành, lại hằng ngày cứ “đối thoại” với một đàn trẻ vừa mới qua cái tuổi ê a ... Mỗi khi ngừng nghỉ lại, nh́n qua hàng ngang th́ đồng nghiệp chỉ toàn là những giáo viên được đào tạo cho các cấp thấp; ngó lên hàng dọc th́ bên trên của ḿnh chưa chắc biết được thế nào là đối xử với trí thức, thế nào là phương pháp giáo dục, có khi cũng chưa thấu suốt được chữ nghiă của thánh hiền ... Cho nên phải nói là cái chén đắng của cuộc đời quá lớn, nhưng v́ tin vào thượng đế, thầy không thể ngẩng lên mà than trách “ngất ngưởng thay con tạo khéo cơ cầu”. Tuổi đời cũng đă cao, thầy cũng không thể tự an ủi ḿnh rằng “thiên sinh hào kiệt bất ưng hư”. Điều duy nhất mà thầy có thể làm được, là cố gắng và cam chịu – nhưng hẳn cứ vơi đầy với những cảm nghĩ “ta sống măi trong t́nh thương nỗi nhớ ”, Tiếc thân Kỳ Kư tra vào rọ [Cao Bá Quát] Chỗ thầy dạy là ngôi trường ở đường Phan Đ́nh Phùng. Nơi đó có hai trường khác nhau, nhưng tôi không biết (cứ ngỡ chỉ có một). Những năm sau, tôi lại cứ đến trường Phan Đ́nh Phùng mà kiếm, nên chẳng gặp được thầy. Bẵng đi bao nhiêu năm, măi gần đây, mới được tin thầy đă qua đời do một tai nạn xe cộ. Ôi cái chết bất ngờ, mang luôn theo trong tấm thân gầy g̣ ốm yếu đó cả một khối tinh anh chữ nghĩa, và một tâm hồn lai láng dạt dào. Thầy ra đi trong lúc làm việc giáo dục, thôi cũng là “chết đấng nam nhi trả nợ trần”, như thầy vẫn hằng tâm nguyện. Thầy không
c̣n nữa, tôi mong cho thầy được ǵ đây? Tôi không tin vào Thượng Đế, nhưng
tôi nghĩ – nếu có thật, Thượng Đế phải
là một vị rất công minh và tôn trọng sự công bằng trong trời đất, phải
công bằng với một người đă v́ ngài mà suốt đời ấp ủ một niềm tin. Nếu cần phải có ḷng thành – và phải có van xin – th́ tôi đây, một kẻ không tin vào
trời thần quỷ vật, nhưng sẽ xin rất thành tâm và khép nép để cầu nguyện,
nếu nguyện cầu có thể đem lại ǵ được cho thầy: Cung chúc Trinh Vương, mẹ quyền phép khôn lường Mẹ từ bi , ngày nay ai đến nép thân? [theo các bài thánh
ca] * Trường cũ
của tôi, nay không c̣n nữa.
Tôi không rơ cách xử lư như thế nào, nhưng thực tế th́ trường đă
trở thành của chính phủ (chỉ trừ một ngôi nhà c̣n để làm nơi cư ngụ
cho các thầy vẫn ở trong trường xưa nay). Cũng không hiểu rơ đây chỉ là xử
lư tạm thời hay như thế nào, v́ từ 1975 đến nay cũng đă 29 năm, không thể
xem một việc ǵ là “tạm thời” khi nó đă kéo dài đến thế! Những trường khác ở Sài G̣n như Petrus Kư (Lê Hồng Phong), Gia Long (Minh Khai), vv... là trường của chính phủ. “Những ǵ của Ceasar trả lại cho Ceasar”’, “những trường của chính phủ, trả lại cho chính phủ ”, điều đó rất phải. Nhưng trường cũ của tôi là trường tư, nghĩa là nó có chủ, chủ của nó là những kẻ tu hành mà Thượng Đế th́ không có mặt, vậy chủ nó là ai? Một số rất ít những sư huynh đă lớn tuổi c̣n lưu ngụ trong đó, tuổi già cứ như chiều nắng, c̣n được bao nhiêu ngày sót lại để sống nốt cuộc đời của những vị Ngu Công? Bảo rằng
Sài G̣n bây giờ đất chật người đông, cho nên cần trường sở. Nhưng đă thiếu th́ có thêm một
ngôi trường cũng không đủ, chuyện không đáng, v́ vấn đề trước sau vẫn là
“trận địa
đây mở giữa ḷng người ”. Tôi hiểu ban điều hành của trường ngày trước có khuyết điểm, nhưng đó là vấn đề nhận thức chưa đủ, không phải cố ư. Tên trường là La-San Taberd, có lẽ là được đặt từ thời Pháp thuộc và không ai nghĩ đến chuyện phải đổi tên đi. Những linh mục như Taberd, Puginier, vv... là những người đến Việt Nam để “xô con đỏ xuống hầm tai vạ”. Qua những việc ông Taberd làm, cái tên Taberd đă đi liền với h́nh ảnh Cờ tam tài đi đằng trước Nhưng nếu chỉ v́ một việc không đủ ư thức là đă để cho cái tên một người nằm nghênh ngang trước lịch sử vùng lên của dân tộc mà thành có tội th́ quả thực chả đáng là tội. Trong thế giới mà chúng ta đang sống, chúng ta thuộc về hạng nghèo yếu, trước mắt c̣n phải đương đầu với biết bao nhiêu nước lớn nhỏ khắp nơi. Vừa yếu, vừa nghèo, chúng ta dựa vào đâu? Phải chăng cái chọn lựa duy nhất là làm như B́nh Định Vương Lê Lợi : Khắp tướng sĩ một ḷng phụ tử Ngày trước, Hồ Hán Thương có nói: “không sợ việc khó làm, nhưng chỉ sợ ḷng người ly loạn”. Nguyễn Trăi cũng nói: “không sợ việc khó thành, mà chỉ sợ ḷng người không định”. Quang Trung Nguyễn Huệ bao giờ cũng lo ngại: “khó th́ không sợ, ta chỉ lo ḷng nhân sĩ Bắc Hà”. Cách nói có khác nhau, nhưng chung qui cũng chỉ nằm ở một điểm: “trăm họ cảm phục th́ sự nghiệp lâu dài ”. Ở các nước
chậm tiến, vấn đề tôn giáo là một vấn đề cũ mà mới. Các ông Huntington của
thời đại bây giờ chắc chắn sẽ không nói: “chỉ cần vài chiếc xe tăng
”! * Nhờ có hệ
thống email , tôi may mắn được gặp lại vị thầy cũ thời Đệ Tứ để thầy tṛ
vẫn c̣n có thể cùng nhau tṛ chuyện.
Với cả hai, bây giờ ngôi trường cũ là cả một vùng trời kỷ niệm, là
một phần rất lớn của tâm hồn.
Thầy tṛ vẫn nói với nhau, từ khi có Darwin trở đi con người mới để ư
tới sự tiến hoá, nhưng tự ngàn xưa, con người đă luôn luôn phải tiến hoá
để tồn tại. Trường cũ của tôi
– mang cái tên LaSan Taberd lúc đó –
là một việc không thuận theo sự tiến hoá, vô t́nh đi ngược lại ṿng
quay của bánh xe lịch sử và niềm thổn thức của dân tộc. Sự vô tâm đó c̣n được chứng minh ở
chỗ này hay chỗ khác, dù là nó ở góc độ nhỏ hơn. Nhưng lỗ nhỏ cũng ch́m thuyền,
không việc ǵ cứ phải hát đi hát lại mỗi ngày mà không bao giờ suy
nghĩ: Và ḷng tôi mừng vui chan chứa [Magnificat] Trong
những ngày dầu sôi lửa bỏng ở miền Nam – khi vấn đề hài hoà giữa t́nh dân
tộc và đức tin được đặt ra – giới trí thức Công Giáo ở Việt Nam có đưa ra
câu hỏi: Người Việt Nam Công Giáo hay người
Công Giáo Việt Nam? Nghĩa
là với một giáo dân, người đó là người Việt Nam trước hay là một người
Công Giáo trước? Chọn lựa cái
nào trước đi nữa, cũng nên nghĩ có liên quan ǵ đến ông Abraham và Israel
hay không? “Thiên ngoại
hữu thiên”, ngoài cách mà chúng ta vẫn suy nghĩ vẫn c̣n những
“bầu trời ” khác. Vấn đề nằm
ở chỗ như thế này: ngay như
Thượng Đế là bậc chí công chí thánh đi nữa, con người cũng phải xích lại
gần (hay có ư hướng xích lại gần) cái đă, mọi sự mới bắt đầu được
thay. “B́nh an dưới thế cho người thiện
tâm ”, cái thiện tâm đó, ít ra cần phải trông thấy được, cảm nhận
được. Cái ǵ không tiến hoá
th́ sẽ tiêu diệt. Vạn vật cỏ
cây hay hành tinh vũ trụ đều thế cả, huống chi chỉ là con người
? Có lẽ tất
cả chúng ta phải cùng nhau suy nghĩ lại, để trong tương lai, mọi điều sẽ
được cải thiện. Les hommes passent Nhân loại qua
đi Đời người
vốn ngắn ngủi mà thời gian th́ lúc nào cũng trôi nhanh vùn vụt. Ngày nào tôi trở lại Sài G̣n lần
nữa, biết có sẽ c̣n thấy được Dưới bóng cây kia trường học ta như những lời đầy hoài niệm trong bài ca ngày cũ hay không ? Văn Lang Tôn Thất Phương (Canberra 04-2004) Npttp@yahoo.com.au
Chú
Thích 1 Qua công điện DEPTEL 243 ngày 26-8-1963, và xác nhận qua công điện ngày 29-8-1963. 2 Khẳng khái hưởng ứng việc cần vương (giúp vua) th́ dễ, thung dung sống giữ nghiă (với vua) là chuyện khó. Đây là tâm trạng của các Văn Thân sau khi vua Hàm Nghi đă bị bắt, phong trào Cần Vương do cụ Phan Đ́nh Phùng lănh đạo cũng bị tan ră. 3 Chính quyền có gây ra vụ nổ hay không, đến nay vẫn c̣n là điều chưa rơ ràng. 4 Dịch chủ tái nô = đổi chủ (khác) để lại làm đầy tớ. 5 Cờ tam tài là cờ ba sắc, quốc kỳ nước Pháp. Mousqueton là loại súng trường cũ. Mitraillette là súng tiểu liên. |