Người
Nhật , Nước Nhật
: (1)
Hayashi Fumiko
Có lẽ không bao nhiêu người Việt ḿnh biết đến nữ văn sĩ Hayashi Fumiko (1903-1951), mặc dù bà là ngôi sao sáng của cận đại Nhật Bản, và đă từng đến sống ở Việt Nam (1942-1943). Đây là một cây bút không mệt mỏi: trong 24 năm viết lách, bà đă viết được 86 cuốn sách, và trên 200 loại truyện ngắn hay đoản văn. Đa số những sách này bán chạy như tôm tươi – v́ qua ng̣i bút của bà, quần chúng thấy được cái nhọc nhằn của người phụ nữ Nhật trong thời chiến tranh và những đói nghèo sau Thế Chiến. Văn chương của Hayashi Fumiko là nỗi niềm của những người phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo, luôn luôn chật vật với sinh kế và thua kém về mọi mặt, nhưng biết ráng tranh đấu – với hoàn cảnh và với chính ḿnh – để mà sống. Có những cái gắng gỏi, tưởng là dễ nhưng lại rất khó đối với một phụ nữ nghèo túng, ví dụ như cố nuôi hy vọng, không muốn ngă vào con đường làm gái bán thân ! Bà sinh ra vào lúc năm cùng tháng tận: 31 tháng 12, 1903. Cha bán hàng rong ở một tỉnh lẻ vùng Kyushu, mẹ là con gái của một chủ lữ quán (onsen ryokan). Hai ông bà ở với nhau không cưới hỏi ǵ. Mẹ bà cũng khá phóng túng: trước Fumiko, người mẹ mới 35 tuổi nhưng đă có sẵn 3 đứa con với hai người chồng trước, và ông chồng hiện tại th́ nhỏ hơn bà đến 14 tuổi. Không được gia đ́nh chấp thuận, cả hai phải dắt díu nhau ra đi, t́m đến sinh sống ở Shimonoseki. Fumiko ra đời ở đó. Fumiko mới lên 6 th́ một hôm ông bố – đang sống muối dưa ngày hai buổi với vợ con – bỗng được “trúng mánh” trong chuyện làm ăn, và dắt ngay một cô geisha về nhà. Bà mẹ giận dữ bỏ ra đi với một t́nh nhân mới – trẻ hơn bà 20 tuổi – và dẫn Fumiko theo. Cả gia đ́nh lê lết từ thành phố này qua thành phố khác, buôn lẻ bán rong. Tuy người bố mới rất hiền, nhưng cuộc sống lang thang làm đứa bé không học hành ǵ ra hồn. Có mấy năm ở tiểu học mà Fumiko phải đổi trường đến 7 lần, và do đó không có bạn học nào hết. Thú vui của cô bé là đọc sách, và nô đùa với những ai chịu khó chơi với ḿnh. Cuộc sống th́ lầm than, nghèo đói. Cha mẹ của Fumiko không thuê nỗi một chỗ riêng cho ḿnh, cứ phải ở trọ trong những căn nhà có đủ hạng người cùng cực và khá khác thường: một cô gái giang hồ cụt một ngón tay và có xâm h́nh 1 con rắn trên bụng, một chú thợ mỏ khùng khùng, một anh hát dạo chỉ có một mắt ... Khi Fumiko lên 12 tuổi th́ gia đ́nh dọn về Onomichi, một vùng ven biển gần Hiroshima. Nơi đây, cô bé may mắn được một thầy giáo dạy tiểu học thương tài viết của cô nên thúc cô thi vào Trung Học Cấp 2 (năm 1918). Bà mẹ thấy thế nên ở yên một chỗ cho đến khi cô bé tốt nghiệp. V́ Fumiko phải đi làm ban đêm để trả học phí cho nên học hành cũng không giỏi giang ǵ. Nhưng ở đây cũng có một giáo viên khác khuyến khích cô trau dồi văn chương, và nhờ đó Fumiko làm quen được với các tác phẩm của Basho, Walt Whitman, Heinrich Heine, vv … Cô bắt đầu làm thơ đăng báo. Người t́nh đầu tiên của Fumiko là Okano Gun-Ichi, cả hai vốn thích nhau v́ văn chương. Năm 1922, sau khi tốt nghiệp Trung Học, Fumiko theo chàng ta lên Tokyo. Cả hai chung sống với nhau cho đến khi chàng xong đại học . Nhưng họ không cưới được nhau: gia đ́nh chàng chê Fumiko là ... đẹp và rất thông minh, nhưng nghèo và xuất thân hạ tiện. Thôi thế là tan một chuyện ḷng! Fumiko bỏ về Onomichi một thời gian, nhưng sau đó quyết định trở lại Tokyo dù phải làm đủ nghề chật vật để sinh sống: ngồi thâu tiền ở nhà tắm công cộng (Ofuro), giữ em, làm thư kư, phụ việc cân chế thuốc, làm cho tiệm cầm đồ, sơn đồ chơi trẻ con, vv... ‘ Nghề ’ mà Fumiko làm lâu nhất là chạy bàn trong một tiệm cà phê nhỏ, ban đêm th́ về giúp cha mẹ bán ở xe hàng rong (hai người này đă dọn lên thành phố Tokyo). Tuy thế, không phải lúc nào cũng có việc làm. Nghèo đói quá, có lần Fumiko đă phải lén nhổ trộm rau cải của người ta trồng dưới ruộng, có khi lại phải ngủ trong cầu tiêu công cộng. Fumiko ghi lại có lúc đă rất xuống tinh thần: Trời
đêm –
hôi hám –
tối thui Nếu nhà vắng chủ, ắt tôi chui vào Tôi
nghèo có trộm [cũng] không sao C̣n
chi nữa để ước ao bây giờ Người
t́nh cũng đă thờ ơ Chê
tôi khốn khó ! Đêm chờ tôi nao ... Cùng cực tới mức có lúc Fumiko đă tự tử để tránh cái thúc ép của ư nghĩ v́ túng quá có nên bán thân nuôi miệng hay không. Nhưng thuốc ngủ không đủ mạnh! Sau khi tỉnh dậy, Fumiko tự nhủ là phải ráng hết sức để mạnh dạn sống tiếp cuộc đời ḿnh ... Khi nghề nghiệp đă long đong th́ h́nh như t́nh duyên cũng lận đận. Năm 21 tuổi, tuy nghèo nhưng Fumiko đă cưu mang nuôi 1 chàng nghệ sĩ xác xơ! Được chừng dăm bảy tháng, nàng sửng sờ khám phá ra chàng có một số tiền kếch sù 2,000 Yen [bằng mấy năm tiền lương] cất trong nhà băng, và một xấp thư t́nh mùi mẫn của một nữ lưu nào đó ... Fumiko “dứt duyên tơ” ngay, nhưng lại sa vào tay một kẻ tệ hơn: Nomura Yoshiya. Anh chàng này tuy là thi sĩ nhưng thuộc loại trói gà rất chặt, và ... thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nàng khá thường xuyên! Tuy vậy cả hai vẫn sống với nhau – cho đến một hôm, chàng đá nàng nằm bẹp dưới đất, rồi nhét nàng vô trong một cái túi lớn, đem vào bếp vất dưới gầm nhà... Năm 23 tuổi (1926), Fumiko gặp Tezuka Rokubin, một hoạ sĩ – và chàng này th́ b́nh thường hơn, nghiă là biết thương yêu nâng đỡ nàng. Hai người sống chung với nhau cho đến ... 18 năm sau (1944) mới hợp thức hoá là vợ chồng! Fumiko vốn nặng t́nh với chuyện viết lách từ những năm nghèo đói. Cô viết nhật kư rất dài, và cũng hay làm thơ, thỉnh thoảng có gửi dăm ba bài đi xuất bản trong các tạp chí. Cô thích đọc văn [bản dịch] của Tolstoy, Baudelaire, O’Neill và nhà văn Na-Uy Knut Hamsun. Năm 1927, Fumiko góp những điều đă chép trong nhật kư để viết lại thành sách, lấy tựa là Những Ngày Lang Bạt (Ho-ro-ki). Đưa bao nhiêu nhà xuất bản cũng đều bị từ chối. Cuối cùng, có một tạp chí chịu đăng nó thành từng phần, cho đến 1930 mới có một người trong ban biên tập của tạp chí này đọc thấy thích và cho in ra thành sách. Không ngờ, sách vừa mới cho ra, độc giả đă đua nhau mua ngay mấy trăm ngàn cuốn, một kỷ lục vĩ đại! Lúc này Fumiko mới 26 tuổi. Những Ngày Lang Bạt nói lên tất cả những nỗi niềm mà Fumiko đă trải qua trong những năm khó nhọc. Mỗi phần của cuốn sách là những nét cắt gọn mà sâu về những lầm than của chính bản thân nàng: đổi từ nghề này qua nghề khác nhưng chả nghề nào vinh, cuộc sống th́ bao giờ cũng bị đồng tiền dằn vặt ..., trong đó cái nghèo làm đôi khi con người chỉ dám mơ ước đến những cái thực ra vốn rất b́nh thường: Tôi
mong sao mua được một ít thuốc để
tẩy những vết dơ trên áo ...
Nhà
trọ rất ồn ào vào giờ ăn tối.
Mùi đồ ăn người ta nấu cứ
bay vào pḥng làm tôi thực là thèm ... Bay
đến đây đi, ôi trứng luộc Bay
đến đây đi, đậu ngào đường Bay
đến đây đi, ôi tô ḿ nước Bay
đến đây đi, bánh ḿ kẹp mứt
dâu. Cá nhân th́ như thế, c̣n cuộc sống của đa số trong xă hội nói chung th́ cũng không có ǵ phấn khởi: Fumiko tả lại cảnh xin việc ở một tiệm bán gạo, người ta chỉ cần có hai nhân viên mà hàng trăm phụ nữ đứng xếp hàng chờ. Ở phần khác th́ kể chuyện đám thợ nề nghèo mà say sưa, chỉ biết nốc vô cả chục chai rượu saké, rồi xô xát với nhau ... Dĩ nhiên Những Ngày Lang Bạt đi xa hơn những chuyện nói về nghèo khó. Trong cuốn sách, Fumiko cũng bộc lộ mọi ư nghĩ và mơ ước của ḿnh: “tôi muốn hét to lên như một người điên” ... “phải viết, chỉ có viết thôi, quên hết để mà viết lách ... rồi để xuất bản ... 500 cuốn th́ phải tốn 80 Yen ... chắc phải đem đi cầm cái kimono mới trả đủ ” ... Thỉnh thoảng cũng có chen vào một vài bài thơ, mỗi bài mỗi khúc đều làm người đọc ngậm ngùi v́ cám cảnh: Tôi
biết chi đâu, thời thơ ấu Giờ đă hoang tàn hoá bụi tro ! Nói chung, độc giả ưa chuộng Những Ngày Lang Bạt v́ nó đầy tính riêng chung: hàng chục vạn phụ nữ Nhật thấy cuộc sống của ḿnh được nói ra trung thực. Sách bán ra đem lại một số tiền khấm khá, Fumiko biếu mẹ một phần, và dùng để đi du lịch hơn 1 tháng bên Trung Quốc. Lúc trở về (1931), theo yêu cầu của độc giả, Fumiko viết Những Ngày Lang Bạt II (Zoku Horoki), và cho xuất bản lại tập thơ Bóng Dáng Ngựa Xanh (Ao-uma o Mitari) Hai tác phẩm khác ra đời sau đó: Cái Phố Nhỏ có Cá và Phong Cầm (Fukin to Sakana no Machi) và Thanh Bần (Seihin no Sho). Truyện thứ nhất nói về những kỷ niệm thời thơ ấu của Fumiko ở Onomichi, tác phẩm thứ hai gồm nhiều truyện ngắn nói về t́nh cảm giữa Fumiko và Rokubin trong bốn năm đầu chung sống. Lúc này Fumiko đă hết tiền, chàng và nàng lại sống trong nghèo khó – nhưng thương yêu nhau hơn. Qua Rokubin, Fumiko bắt đầu t́m lại được ḷng tin vào thiện tâm của con người, một điều mà từ bao lâu nàng vẫn ngờ vực. Thanh Bần được quần chúng lẫn các nhà phê b́nh văn học ủng hộ nồng nhiệt. Có tiền, Fumiko lại đi du lịch: lấy tàu lửa xuyên Siberia để qua Moscova, sau đó tới ở Paris khoảng 4 tháng, đi xem Opera và diễn kịch, thăm các viện bảo tàng vv... cho đến khi cháy túi mới trở về (tháng 6, 1932). Trong thời gian ở Paris, Fumiko có viết ít bài ngắn, gửi về đăng ở các tạp chí. Bây giờ bà đă nổi danh nên những nhà xuất bản và các hội đoàn giành nhau t́m đến để đặt cọc bài viết, hoặc mời đi thuyết tŕnh. Fumiko không từ chối một ai, v́ muốn kiếm tiền, và được đi chơi đó đây. Tuy vậy cứ mỗi mùa Hè th́ Fumiko lại rút về một nơi yên tĩnh trong vùng Omomichi để có th́ giờ viết lách và để cho Rokubin vẽ. Về sau, Rokubin cũng khá lên, tạo được tên tuổi trong nghề nghiệp của ḿnh. Qua 1934, những viết lách của Fumiko – dù vẫn mang tính hiện thực phê phán – đă bắt đầu thoát dần ra khỏi loại tự thuật . Tác phẩm Chú Bé Khóc Nhè (Nakimushi Kozo) là câu chuyện một em nhỏ có mẹ đi lấy chồng khác, và v́ không ai muốn nuôi nên cứ phải bị chuyền tay từ người này qua người khác trong đám bà con. Tác phẩm Con Hàu (Kaki, 1935) th́ nói về 1 anh thợ làm túi da cưới phải một cô vợ tham tiền, về sau bị vợ bỏ nên anh dần dần hoá điên ... Cả hai cuốn này đều được đánh giá cao nên Fumiko có tự tín hơn để đi xa khỏi lănh vực viết truyện tự thuật. Thường Fumiko không cho ai thấy quan điểm chính trị của ḿnh. Có lẽ nhờ đó mà mùa Thu năm 1936, quân bộ Nhật cho phép bà (lúc đó làm phóng viên) qua tiếp xúc với binh lính Nhật bên Măn Châu. Năm sau, khi quân Nhật tiến chiếm Trung Quốc, Rokubin bị gọi nhập ngũ. Tháng Chạp, bà xin làm phóng viên chiến trường cho báo Tokyo Nichi Nichi, và đă có mặt trong những ngày đầu khi quân Nhật chiếm Nam Kinh. Tuy nhiên, chả rơ v́ sợ kiểm duyệt hay v́ quan điểm cá nhân – hay cả hai – mà không thấy Fumiko đả động ǵ đến những thảm cảnh của người dân Trung Quốc, ví dụ như chuyện quân đội của Thiên Hoàng hăm hiếp hơn 20,000 phụ nữ ở Nam Kinh. Fumiko chỉ viết bài trên quan điểm của quân đội Nhật. Những năm kế tiếp vẫn là những năm mà Fumiko ‘ khoác chinh y ’ – bà trực thuộc hẵn vào “Lực lượng Cầm Bút của Quân Đội” (Pen Butai). Fumiko liên tiếp viết Tiền Tuyến (Sensen), Ba Đào (Hato), Đội Quân Nơi Miệt Bắc (Hokugan Butai), và những loạt phóng sự nói về sinh hoạt của quân Nhật trên các chiến trường Măn Châu, Trung Quốc. Ngoài ra, bà cũng hay đi diễn thuyết để “ủy lạo” binh sĩ, hay vận động dân chúng Nhật ủng hộ cho chiến tranh ... Từ 1942 trở đi, Fumiko có mặt trong số những văn sĩ Nhật được gửi xuống ‘Nam Phương’ (vùng bị Nhật chiếm đóng như Indochina, Singapore, Java, Borneo và Sumatra) để cổ súy cho ‘ tinh thần Đại Đông Á’. Nhờ có quan hệ tốt với quân đội, trong mùa Đông 1942-1943 bà được đến sống huy hoàng trong những biệt thự sang trọng ở Đà Lạt . Chính phong cảnh hữu t́nh ở đây đă giúp cho bà sau này viết được cuốn truyện nổi tiếng Phù Vân (Uki-gumo). Tháng 5-1943, Fumiko trở về Tokyo. Lúc đó nước Nhật đă quá túng quẩn, ai cũng phải chạy lo kiếm miếng ăn nên chuyện viết lách hoàn toàn không có ǵ. Mặt khác, chế độ kiểm duyệt ngày càng nặng nề thêm. Ngay cả cuốn Những Ngày Lang Bạt cũng bị cấm lưu hành v́ bị cho là quá vị kỷ cá nhân và thiếu tinh thần yêu nước. Dù sao th́ về mặt gia đ́nh, Fumiko khá may mắn v́ Rokubin được giải ngũ trở về. Hai người nhận một bé trai làm con nuôi, đặt tên là Tai. Năm sau, v́ Tokyo bị máy bay Mỹ dội bom liên miên nên bà phải bế con sơ tán lên vùng núi non gần tỉnh Nagano. Fumiko chỉ viết được dăm bài thơ và ít bài tạp ghi không đáng kể. Tháng 8-1945, nước Nhật đầu hàng. Hoà b́nh trở lại nhưng những khó khăn nghèo đói trong xă hội lên đến cao độ . Tuy vậy, trạng huống mới lại đem đến cho Fumiko nhiều đề tài để viết. Năm 1946, bà có được vài truyện ngắn xuất bản trong các tạp chí [Băo Tuyết (Fubuki), Ḥ Hẹn (Aibiki), Nuôi Trong Đồng Rộng (Hoboku), vv… ] và hai cuốn sách [Cỏ Nổi (Ukigusa), Du T́nh Lai Láng (Ryojo no Umi) ]. Không biết v́ chế độ kiểm duyệt đă cáo chung – hay do Fumiko bây giờ mới cảm được mùi thống khổ của chiến tranh sau khi nó có đến cho chính bản thân ḿnh – mà t́nh cảm của bà bỗng nhiên có vẻ khác đi so với thưở “vác bút ṭng quân” lúc trước. Giữa 1946 và 1947, Fumiko bắt đầu viết Bao Gịng Nước Xoắn (Uzu-shio), nói về t́nh cảnh những goá phụ có chồng lính chết trong chiến tranh. Trời Mưa (Ame) là chuyện kể những bơ vơ đau khổ của một anh cựu chiến binh: Kojiro trở về, chán chường, mệt mỏi. Từ lâu, gia đ́nh ngỡ anh đă tử trận, nên gả vợ anh cho đứa em trai ... Nghe bố khuyên “đừng xáo trộn làm hư hết mọi sự”, anh bỏ quê đi xuống Sasebo, định ở nhờ một người bạn, nhưng không kiếm được. Giữa thành phố Sasebo hoang tàn đổ nát, Kijiro bước đi lạc lỏng, nghe mưa quất trên vai ḿnh mà thấy lạnh buốt cả tâm can ... Khuynh hướng chán chiến tranh hiện rơ thêm trong tác phẩm Viên Kim Cương ở Borneo (Boruneo Daiya), xuất bản năm 1948: Manabê là một kỹ sư về hầm mỏ. Ông ta đào được một viên kim cương rất lớn ở Borneo và gửi về cho vợ, mong sẽ thấy nàng hănh diện đeo lên. Không ngờ, bà vợ đem viên kim cương đóng góp cho quỹ ủng hộ chiến tranh ... Manabê cảm thấy được một sự rỗng tuyếch rất giống nhau giữa hai loại người: một bên là những người Nhật đi xâm lăng nước khác và xem dân bản xứ là loài đáng khinh thấp kém, bên kia là một người đàn bà Nhật đă đi làm chuyện “uổng mất giá trị của một viên kim cương”. Chính thời 1947-1948 là lúc Fumiko sáng tác rất sung sức: 20 cuốn sách và trên 10 truyện ngắn. Đời Vô-Lại Thong Dong (Uruwashiki Sekizui) là câu chuyện của một cựu chiến binh phải sống lang thang trên các nẻo phố phường. Những Chiếc Xương (Hone) là câu chuyện của một goá phụ hai vai nặng gánh gia đ́nh: chồng th́ chết trận ở Okinawa, em trai th́ ho lao, ông bố già th́ bị truất tiền hưu bổng. Nàng không kham được chuyện đi đan áo mướn để kiếm sống, nên trở thành gái bán thân. Trong đêm đầu tiên đi khách, nàng nghe cắn rứt “ù cả hai tai”. Nhưng chả bao lâu, nàng sớm biết “liếc sơ qua là nhận ngay được giá trị của từng cái ví tiền”. Một
truyện ngắn khác, Hoa
Cúc Muộn (Bangiku),
nói về một bà Geisha già tên Kin,
đă 56 tuổi nhưng vẫn c̣n đẹp : Ngày trước, Kin yêu 1 chàng bạch diện thư sinh tên Tabê, nhỏ hơn Kin 25 tuổi. Tabê đi lính qua Burma, bây giờ đă trở về, và họ muốn gặp lại nhau. Nàng soi gương trang điểm để chờ “chiến sĩ của ḷng em” hiện đến. Truyện
ngắn Ngoài
Phố (Shitamachi)
kể chuyện một người đàn bà nghèo tên
Ryo: Chồng của Ryo đi lính, bị cầm tù ở Siberia đă 6 năm nay, không rơ mất c̣n. Ryo lo buôn bán nuôi con, mỗi ngày mang trà đi bán dạo khắp phố phường. Ryo
vẫn tiếp tục đi bán trà dạo ... Có
lần, một người
đàn bà nghèo nọ mời nàng vào nhà uống nước.
Nh́n bà ta và mấy người phụ nữ khác
ngồi khâu bên những chồng áo quần cao
ngất, Ryo suy nghĩ
– những
người này, “cũng đàn bà, và c̣n nghèo khó
hơn ḿnh, mà họ c̣n ráng được thay” ... Trong
hai năm 1949-1950, Fumiko viết thêm khoảng 20
truyện ngắn đăng trên tạp chí và
xuất bản khoảng 6-7 cuốn sách, trong đó Phù
Vân (Ukigumo)
là cuốn cuối cùng nhưng rất thành công.
Truyện nói về 1 người đàn ông và
một người đàn bà không thích ứng
được với thực trạng: Tomioka Ken-ichi là một kỹ sư lâm nghiệp sang làm việc ở Đà Lạt thời quân Nhật chiếm Việt Nam. Anh gặp Koda Yukiko, một cô thư kư đánh máy rất trẻ. Cả hai đang hưởng một cuộc sống thần tiên: nhà cửa th́ có sẵn những biệt thự đẹp lấy của những người Pháp giàu, xung quanh th́ có núi đồi nên thơ, hoa nở khắp nơi, hồ nước trong xanh, cảnh vật như tranh vẽ, nhiều loài chim nhiệt đới nhởn nhơ ... Bỗng
Nhật thua trận, họ rớt về đất cũ
thực tại. Trái
ngược với cái vùng địa đàng
mộng mơ có t́nh yêu nồng cháy đam mê,
Nhật Bản trong những năm hậu chiến là
một đất nước đầy hoang tàn và xác
xơ v́ nghèo đói. Mỗi
ngày trên quê hương hôm nay là những cảnh
trời xám gió lạnh, giường ngủ chả có
gối êm chăn ấm, bữa ăn hụt nọ
thiếu kia ... Dĩ nhiên Tomioka không dám hé môi
với vợ về chuyện Yukiko, và v́ tiếc
của đời, anh cũng không dám nói với
Yukiko là ḿnh không yêu cô ta để cho dứt khoát
... Về sau, anh bán
nhà lấy vốn đi buôn gỗ, nhưng sớm
thất bại, và cuối cùng phải đi ở
nhờ vào những người bà con ... Phần
Yukiko, tuy hiểu Tomioka rất rơ nhưng không dứt
ra được, nên cô vẫn cố gắng
“níu kéo bóng t́nh yêu”.
Khi vợ của Tomioka đă mất và anh chàng
đi lănh việc mới ở vùng Yakushima, Yukiko
đi theo ... Nhưng
vùng này khí hậu ẩm ướt lạnh lẽo,
ngày càng làm cho bệnh lao của Yukiko thêm nặng.
Nằm hấp hối trên giường bệnh,
Yukiko nhận ra Những
ǵ mà nàng ngỡ là tiếng muôn cây ŕ rào trong gió
nhẹ của vườn địa đàng Đà
Lạt, thực ra chỉ là tiếng của những
hạt mưa bị gió tạt, rơi rạt rào trên
liếp cửa ngoài kia. Nàng
thấy như vụt
rơi ṭm xuống vực ... Yukiko
chết đi, c̣n lại Tomioka bơ vơ sống không
nhà không cửa, không vợ,
không t́nh nhân, và không biết sống để
làm ǵ. Bây giờ,
anh ta chỉ là “phù vân”
– một
cụm mây nổi lêu bêu –
như hàng triệu cụm mây khác đang
sống bập bềnh mất hướng đi dưới
bầu trời nặng trĩu của một nước
Nhật đói nghèo sau cuộc chiến. Phù Vân ra đời chỉ hai tháng sau th́ Fumiko bị biến chứng cơ tim, và chết ngay hôm sau, chưa tṛn 48 tuổi (28-6-1951). Ngày đưa linh cửu, ngoài giới văn nhân nghệ sĩ ra c̣n có hàng ngàn phụ nữ, nhiều người tay c̣n cầm giỏ đi chợ, đến nghiêng ḿnh tiếc nuối tiễn đưa. Fumiko viết nhiều về cuộc đời của đám đông quần chúng, nên được quần chúng ái mộ . Để tưởng niệm bà, họ dựng một tượng đồng bên con đường lớn ở trung tâm thành phố Onomichi (Hiroshima), nơi Fumiko sống thời niên thiếu. Bên cạnh đó là một căn nhà kỷ niệm được làm giống hệt cái văn pḥng mà bà thường làm việc . Ở quê hương bên ngoại, Sakura-jima (Kuyshu), không xa nơi lữ quán của mẹ bà ngày xưa, người ta lập một đền thờ để tưởng nhớ Fumiko. Trước đền là một tảng đá xinh xinh, có khắc hai câu thơ của người nữ sĩ: Hana no inochi wa mijikakute nigashiki
koto nomi o-kariki Kiếp
hoa thường ngắn ngủi Và cay đắng đong đầy. ®
"Khi phát hành lại thông tin từ
trang này cần phải có sự đồng ư của
tác giả
|