|
Truyện
Kiều trong Văn Hoá Việt Nam
Về
cái hay của truyện Kiều, xưa nay thiên
hạ đă bàn luận khá nhiều, cho nên
những ǵ đă trở thành phổ biến, ví
dụ như cách hành văn hay, dùng chữ khéo
vv... có lẽ không cần phải nhắc đi
nhắc lại măi. Có
thể bảo truyện Kiều được
ưa chuộng và được truyền bá
rộng răi trong nhân gian v́ tương đối
nó dễ nhớ dễ thuộc, văn chương
uyên áo nhưng tương đối cũng
dễ hiểu đối với quần chúng b́nh
dân; mặt khác
truyện lại có giá trị về đạo
nghĩa. Các tác
phẩm khác, ví dụ như Lục
Vân Tiên, cũng như thế; song rơ rệt là
văn chương của truyện Kiều trau
chuốt hơn, tả t́nh tả cảnh phong phú
hơn nên dễ đi vào ḷng người hơn.
Dân Việt ta ưa ngâm Kiều, vịnh Kiều,
dẫn Kiều, lẩy Kiều, v.v... là v́
thế. 1.
Sự phổ biến của truyện
Kiều trong nhân gian: Đặc
điểm lớn nhất của người
Việt Nam là yêu thơ.
Ít có dân tộc nào yêu thơ như người
Việt Nam đến độ thơ đă
trở thành như hơi thở trong đời
sống: buồn khổ cũng thơ, vui mừng
cũng thơ, đánh giặc cũng thơ,
ở tù cũng thơ, giao tế với nhau
bằng thơ, và
khi hẹn ḥ t́nh tự với nhau th́... khỏi nói
là thơ nhiều đến như thế nào!
Chỉ riêng Ca Dao và Văn Chương
B́nh Dân Truyền Khẩu của Việt Nam,
nếu có ai đi tom góp cho đầy đủ,
hẵn cũng đến những "ba bồ
chữ" ! Riêng
về truyện Kiều, độ thẩm
thấu của nó đă vào rất sâu trong ḷng
quần chúng nên rất nhiều người
thuộc, có người thuộc được
cả những đoạn rất dài. Đáng nói hơn nữa là hầu hết
quần chúng Việt Nam, những ai đă biết
rơ về truyện Kiều th́ lại muốn
biết thêm cho thật chi tiết.
Họ thấy thích thú, sung sướng trong
những khám phá mới hoặc trong những
ứng dụng thơ Kiều theo những điều
tức cảnh tức t́nh mới.
Ví dụ người ta đố nhau: Truyện
Kiều anh học đă lâu hay
có khi một cô gái dám dạn dĩ: Đầu
Kiều có một chữ nho Lắm
lúc, người ta đố nhau những câu
Kiều đặc biệt, ví dụ t́m ra câu thơ
gồm toàn chữ Hán như: Hồ
công quyết kế thừa cơ Hoặc
bảo kiếm những câu chỉ toàn chữ Nôm
thôi, nhưng phải "khác thường" như: Này
chồng, này mẹ, này cha Hay
là : C̣n
non c̣n nước c̣n dài Có
khi họ lại phỏng đoán, chả biết
Nguyễn Du thực sự có nghĩ thế hay không: Đêm
khuya gió lọt song đào 2.
Điều cần chú ư khi nói về một
số tư tưởng trong truyện Kiều Về
mặt các ƯU
ĐIỂM
cũng như những HẠN
CHẾ của
truyện Kiều, sách
vở đă có nói khá nhiều nên ở đây
chúng ta chỉ cần lướt nhanh qua một
số điểm và không nêu lại những ǵ
đă quá thông thường, phổ quát. Bên
cạnh giá trị cao về văn chương,
truyện Kiều c̣n là một tấm gương
phản ánh khá rơ rệt thế thái nhân t́nh, nói
lên được những tệ đoan của xă
hội. Nó cũng
diễn tả được tâm-tư t́nh-cảm
của cá nhân con người trong nhiều
trạng huống khác nhau một cách tài t́nh, sâu
sắc. Nhờ những điều như thế nên
truyện Kiều mang tính chất riêng
chung rất lớn.
Ngược lại, HẠN
CHẾ KHÁCH QUAN
của nó cũng khá nhiều:
Suốt cả câu chuyện ta thấy đầy
dẫy những ư niệm về nhân quả, định
mệnh của tôn giáo (ví dụ: Bắt
phong trần phải phong trần !). Bối cảnh của nó lại bắt
buộc phải rất xa lạ với Việt Nam
(= tất cả toàn ở tận đâu
đâu bên Tàu). Đây
là chuyện dịch của Tàu (sẽ bàn sau) nên
chúng ta không thể đ̣i hỏi ǵ hơn, nhưng
chẳng phải là không có hạn chế khách
quan trong đó. Sở
dĩ văn chương thời đó phải tránh
xa bối cảnh Việt Nam v́ ở thời phong
kiến, nếu viết một câu chuyện như
truyện Kiều với bối cảnh Việt
Nam th́ dù vô t́nh hay không, tác giả cũng
phải chịu hậu quả khá nặng nề
khi có những đụng chạm trên dưới
ngang dọc. Do
đó các tác phẩm có tiê’ng của ta như CHINH PHỤ NGÂM, CUNG OÁN NGÂM KHÚC,
LỤC VÂN TIÊN,
vân vân, đều mang bối cảnh rất xa
lạ với dân Việt, ví dụ như cơi
Thiên San,
năm
Gia Tĩnh,
núi
Ô Sào,
giặc
Ô Qua,
v.v... GIỚI
HẠN CHỦ QUAN
cũng bao gồm vài điểm khá xa vời
thực tế, ví dụ chuyện của ông lănh
tụ Từ Hải, một kẻ “ hơn
người trí dũng, nghiêng trời uy linh ! ” : Dù có mê gái
đến bực nào đi nữa, nếu
đương sự không thấy ra được
vấn đề, chắc chắn những chân tay
tả hữu của ông ta cũng không để
cho chỉ v́ một nàng Kiều “bé bỏng”
mà họ Từ phải tổ chức
một vụ xử án công khai khiến thiên
hạ nơi nơi đều biết rơ hết cái
"lư lịch" khá thăng trầm của
vị "đệ nhất phu nhân" như
thế! Việc
xử án không có lợi ǵ cho sự nghiệp
của họ Từ chút nào về cả hai
mặt danh tiếng cũng như tuyên truyền chính
trị Một
điểm nhỏ khác là tính chất của
sự gắn bó giữa Kiều và Từ Hải.
Qua câu nói "ngh́n
năm ai có khen đâu Hoàng Sào",
ta thấy rơ trước sau ǵ cô Kiều
vẫn xem việc làm của họ Từ là hành
vi của một thứ "giặc cỏ" (dù
rằng lúc mới gặp Từ, cô ta có tạm
khen rằnng "Tấn
Dương được thấy mây rồng có
phen"!).
Những lư luận "chiêu hàng" khá
yếu ớt của Kiều lại được
Từ Hải nghe theo một cách quá ư dễ dăi,
hóa ra cái mục đích chống triều đ́nh
của họ Từ mà ai cũng ngỡ là để
cứu dân độ thế, thật sự không
hẵn như vậy !
Tương tự suy ra, việc xử án công
khai lũ Khuyển Ưng nọ kia ...
rốt cục cũng chỉ để làm
vui ḷng người đẹp chứ chả
phải v́ Từ Hải muốn đưa ra
một bài học để răn những kẻ
ác chút nào cả ! Người
ta cho rằng sở dĩ Nguyễn Du lèo lái câu
chuyện như thế để
rốt cục Kim Kiều c̣n có thể
gặp gỡ v́ chính ông ta c̣n mơ ước
một cuộc "tái hợp" với nhà Lê.
Đây có lẽ là mấu chốt của
truyện Kiều. Đành rằng Nguyễn Du
đă có thể muốn kư thác tâm sự cuả
ḿnh qua truyện Kiều, do đó ông ta có thể
lèo lái câu chuyện theo ư ông.
Nhưng phải nhớ là Nguyễn Du không sáng
tác câu chuyện mà chỉ "diễn Nôm" (nói
đúng hơn là diễn ra thơ Nôm) lại câu
chuyện của một tác giả Trung Quốc tên
Thanh Tâm Tài Nhân. Giữa
truyện Kiều của Nguyễn Du và
Kim-Vân-Kiều-Truyện
(hay có thể là tựa ǵ đó) của Thanh Tâm
Tài Nhân có những khác biệt ǵ chính yếu,
đó là điều chúng ta phải biết đến
và nhận định kỹ để có thể
phân biệt được đâu là ư thật
của Nguyễn Du, đâu là ư ông vay mượn,
và đâu là những điều Nguyễn Du
chỉ dịch ra một cách tự nhiên, vô t́nh. Nhà
văn Lữ Phương có nhận dịnh
rằng truyện Kiều mang giá trị lớn
ở điểm đă "đi
trước thời đại của nó"
qua chuyện Từ Hải:
Việc thực hiện công lư "ân đền
oán trả" đă không do bàn tay một nhân
vật nằm trong giai cấp thống trị như
vua chúa, quan lại, trạng nguyên, v.v... mà lại
qua tay một kẻ dám chống lại triều
đ́nh! Nhận
xét thật đúng, nhưng tư tưởng này
của ai, Nguyễn Du hay Thanh Tâm Tài Nhân ? Thêm
một điều nữa:
có những đoạn thật hay trong
truyện Kiều, ví dụ khúc tả Kiều
gảy đàn: Khúc
đâu đầm ấm dương ḥa Tất
cả những ư niệm so sánh như ở trên,
hay những từ ngữ và ư niệm như "tiếng trong tiếng đục",
"tiếng
sắt tiếng vàng"...
ở những đoạn khác là của ai;
Nguyễn Du sáng tác ra hay chỉ mang rượu cũ
sẵn có bỏ vào b́nh mới một cách khéo léo
? Xưa
nay hầu hết các nhà xuất bản cho ra
truyện Kiều đều chỉ chú trọng
đến những vấn đề đính chính
từ ngữ đúng sai, hoặc giải thích
điển cố, hoặc so sánh vài khảo
dị đối với các bản cũ đă ra
từ trước, v.v...
Điều đó cũng tốt, nhưng không
cần thiết lắm v́ rốt cục cũng không
có ǵ mới, nhất là hiện nay TỰ
ĐIỂN TRUYỆN KIỀU đă ra đời. Cái đáng làm nhất là t́m
nguyên bản của Thanh Tâm Tài Nhân, dịch cho sát
và đúng đắn, rồi so sánh với tác
phẩm của Nguyễn Du th́ không mấy ai
chịu làm. Trước
đây độ 20-25 năm có thấy một
tạp chí ở Sài G̣n (Bách
Khoa?) chịu khó dịch và đăng
dần dà truyện Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân
bằng văn xuôi. Đây
là một công tŕnh quan trọng, đáng t́m
lại cho đầy đủ và lưu trữ
khi chưa có thể làm được công
việc t́m nguyên bản để dịch cho hoàn
hảo. T́m
ṭi để nhận định cho đúng đắn
về truyện Kiều là một điều
cần thiết. Khi
hănh diện về truyện Kiều, chúng ta
phải nắm rơ là chúng ta hănh diện về nó
ở chỗ nào đă đành, cũng phải công
nhận nó có những hạn chế nào nữa. 3.
Khía cạnh chính trị: Truyện Kiều như
một thần dược trong “uống ngoài
thoa”
Trước
hết là buổi giao thời khi quân Pháp mới
đến. Nếu
đă có một số người ra cọng tác
một cách trắng trợn như Trần Bá
Lộc, Hoàng Cao Khải, Lê Hoan, Huỳnh Công
Tấn, Nguyễn Thân, v.v... th́ cũng đă có
những người trí thức "c̣n
biết mắc cở"
kiểu Tôn Thọ Tường.
Ông Tường chỉ biện minh cho ḿnh hay
đă cố t́m một "chủ thuyết"
cho hành động hợp tác của ông ta th́ chưa
phải là điều để bàn ở đây,
nhưng ai cũng nhớ là ông Tường
đă không lỡ dịp nào để biện
minh. Song song
với những nhân vật khác như Tôn Phu Nhân,
Từ Thứ, nàng Kiều cũng đă được
ông ta đem ra để nhờ thiên hạ
"chứng giám" cho rằng: Mười
mấy năm trời nhục trả xong Hiểu
rơ ông Tường là cử nhân Phan Văn
Trị. Đă
nhắc khéo ông Tường nhiều lần, ví
dụ như Anh
hỡi Tôn Quyền, anh có
biết cũng
như đă nêu rơ đâu là trong đục
trắng đen một
cách rơ ràng, dĩ nhiên lần này cụ
cử cũng không im lă.ng.
Đại điện cho tầng lớp sĩ
phu yêu nước, cụ lư luận: Tài
sắc chi mi hỡi Thúy Kiều Nhưng
nhắc truyện Kiều mà ngậm khổ
lần nọ qua lần kia th́ phải kể đến
tâm sự của một nhà nho yêu nước
nồng nàn khác: NGUYỄN
KHUYẾN.
Biết cụ là danh sĩ được
quần chúng trọng vọng, nhà cầm quyền
thấy dụ dỗ măi không lung lay được,
bèn nghĩ đủ cách để hạ uy tín
của cụ. Họ
ép cụ phải làm văn để tế 1 tên
quan Tây (Pháp) khi hắn chết (5). Nghe
lời th́ khổ tâm, v́ không khéo sẽ bị dùng
làm phương tiện để tuyên truyền
rằng "đến cả cụ Tam Nguyên mà c̣n
có phần nào hợp tác" !
Nhưng từ chối dĩ nhiên họ không
cho, cụ đành ngậm ngùi xem ḿnh như thân
phận một nàng Kiều khi đă sa cơ
lạc bước th́: C̣n
như vào trước ra sau Kết
quả là truyện Kiều đă trở thành nơi
ẩn nấp an toàn cho một tâm hồn muốn
giữ vững sĩ khí.
Cụ không làm chữ nào, chỉ lẩy
Kiều : Trời
Tây bảng lảng bóng vàng Phải,
cái thể phách này "phẩm
tiên rớt xuống tay hèn" coi như đă chết, nhưng
tinh thần th́ không ai có thể đàn áp
được. Vả
lại "đứa
con quư không thể để chết về tay
kẻ cướp", khi chưa đáng phải hy sinh,
con người cần phải bảo vệ tính
mạng ḿnh ! Nhưng
đă yên đâu ! Về
sau này, nhân thấy truyện Kiều không mang tư
tưởng kêu gọi độc lập hay có ǵ
nguy hiểm cho thể chế,
người Pháp để dân Việt "phát
huy văn hóa" theo đường lối
họ vạch ra và giới cầm quyền tổ
chức thi đua ngâm vịnh Kiều khắp nơi.
Tên Tổng Đốc Lê Hoan lại bắt
cụ đứng ra làm chủ khảo cho cuộc
thi "Vịnh Kiều". Dưới
đây là bài vịnh Kiều của ông chủ
khảo: Thằng
bán tơ kia giở giói ra Làm
cho bận đến cụ viên ǵa Thật
đáng cảm phục, mà cũng đáng ngậm
ngùi ! * THỜI
buổi ấy, vàng thau lẫn lộn.
Các phong trào yêu nước đă lần lượt
bị dẹp tan cả để một Nguyễn
Đ́nh Chiểu sa nước mắt cho những
cảnh: Trên
giồng lửa cháy, cờ tam sắc Khi
đất nước đă ở cảnh
"ải lang dứt dấu, ngựa
Hồ vào ra"
(6) rồi, th́
kẻ theo phú quư mỗi ngày càng thêm nhiều,
kẻ lơi lả "ngă tay chèo" cũng
đông dần ra khiến một Nguyễn Hữu
Huân ngậm ngùi: Áo
Hán nhiều phần thay vẻ lạ Đối
phó với t́nh thế đó, cụ Phan Bội Châu
và các đồng chí đă đứng ra
những mong "gom bột để gột nên hồ" với
mục đích "vị ngô hoàng
chủng thụ hồng kỳ" (= v́ ṇi hoàng
chủng dựng cờ đào).
Nếu phái Thiết-Huyết (= hay phái
Kịch-Liệt) của cụ đă cho ra Hải
Ngoại Huyết Thư với những câu: Ḱa
những kẻ lạc tai tham họa Ḱa
những kẻ vong thù nhẫn sỉ (...)
Ḥn
máu uất chất quanh đáy ruột th́
phái Ôn Hoà (hay phái Thận Trọng) cũng
nhắc nhở toàn dân rằng chẳng vinh hoa ǵ
cái kiếp làm tôi tớ cho người!
Năm 1907, cơ quan của phái Ôn Ḥa là Đông
Kinh Nghĩa Thục cho lưu hành bài
"lẩy Kiều" khắp nơi, nhắm vào
quần chúng nói
chung nhưng chủ ư kêu gọi những phần
tử hợp tác với Pháp.
Bài văn nhắc nhở:
khi chủ quyền c̣n ở tay TÂY th́ sang giàu
đi nữa cũng chỉ làm nô lệ cho người: Trời
Tây bảng lảng bóng vàng Nhưng
Đông Kinh Nghĩa Thục không sống đuợc
lâu. Mới hoạt động được
chỉ một năm th́ ngụi Pháp đă hoảng
hốt ra lệnh đóng cửa và
"hốt" hết các chí sĩ của phong trào
ra Côn Đảo (1908).
Cụ Phan Bội Châu, linh hồn của phong
trào yêu nước đương thời cũng
bị bắt cóc ở Thượng Hải (1925) và
đưa về Hà Nội. Cụ bị kêu án
tử h́nh. Tuy
nhiên sợ rằng một Phan Bội Châu
"tuẫn nghĩa" sẽ làm cả một dân
tộc đứng vùng lên nhanh hơn, đồng
loạt hơn, thực dân Pháp đành đưa
cụ Phan đi giam lỏng ở Huế. Cho
rằng cụ ở như thế lâu ngày sẽ
sinh chuyện không tốt,
phái Kịch Liệt th́ mong cụ thoát ra
nhanh để "tái
tạo cơ đồ",
phái Thận Trọng th́ sợ cụ sẽ không
giữ được trọn vẹn danh tiết
v́ người Pháp đang ráng sức dụ
dỗ cụ "đề
huề" với họ.
Cụ Phan phải lẩy Kiều để
nhắn nhủ quốc dân thuộc cả hai phái: Ví
chăng xét tấm t́nh si Sinh
rằng từ thưở tương tri Trong
số học sinh Đông
Du
theo cụ lúc trước, có Nguyễn Bá Trác (c̣n
tên là Nguyễn Phong Di) về đầu thú
với Pháp và được làm quan, dần dà lên
đến chức Tuần Phủ.
Cái ghế Tuần Phủ ấy có được
nghe đâu cũng do đương sự tố cáo
anh em bạn bè đồng chí cũ mà ra.
Mặt khác, cha mẹ của đương
sự cũng được Nam Triều -- theo
lệnh của Pháp -- sắc phong khen ngợi.
Một
bữa nọ, con người phản bội kia
cao hứng tổ chức ngâm vi.nh.
Có một nhà Nho can đảm đă "lẩy
Kiều" trước
đám đông làm quan lớn xanh cả
mặt. Bài thơ
được truyền tụng nhanh chóng: Kể
từ lạc bước trở ra * NHỮNG
năm từ 1925 trở đi là thời mà
truyện Kiều "phát đạt", nhưng
lần này theo khuynh hướng xấu nhất.
Qua tài văn chương xuất sắc
của một người hợp tác mới
- Phạm Quỳnh
- người Pháp đă tổ chức các
phong trào "HỌC
KIỀU"
rầm rộ khắp toàn quốc để người
Việt quên đi quốc sự, chính tri.
Chính Phạm Quỳnh đă đưa ra
khẩu hiệu cho phong trào "HỌC KIỀU": Truyện Kiều c̣n, tiếng ta c̣n Phong
trào này lan rất nhanh, nhưng tính chất
của nó dĩ nhiên bị mọi ngựi khám phá
ra sớm. Cụ nghè Ngô Đức Kế, đă
từng bị Pháp nhốt tù Côn Đảo nhưng
hùng khí không nhụt: Cụ
nổi giận viết ngay một bài tựa đề
là CHÍNH
HỌC VÀ TÀ THUYẾT
để công kích nhóm Phạm Quỳnh thẳng cánh.
(Bài văn này hùng hồn, sắc bén,
tiếc rằng dài quá không tiện chép ra trong khuôn
khổ bài viết này).
Một
chiến sĩ khác, cụ
nghè Huỳnh Thúc Kháng, cũng đi tù Côn Đảo
về c̣n chân ướt chân ráo nhưng đă
lật đật tiếp sức ngay cho cụ Ngô
với cả một loạt thơ "VỊNH KIỀU" dài. Nàng
Kiều mà cụ gọi là cái thứ "phường
trăng gió" ở đây dĩ nhiên không ai khác
hơn kẻ "đứng đầu" phong trào "Học
Kiều" : Phạm
Quỳnh ! Á
cũ qua rồi, mới chửa Âu ! Muôn
ác tà dâm, ấy sự đâu Biết
nỗi người sau dại thế ru Sách
dạy ngày nay đĩ đứng đầu Đừng
để non sông chịu tiếng vu Quả
là một cú đánh trời giáng của văn chương
lửa thép ! Ở
kinh đô có văn chương tranh đấu
của kinh đô, địa phương cũng có
văn chương tranh đấu của địa
phương ḥa điệu.
Vùng Ninh B́nh, tên tổng đốc tham ô là TỪ ĐẠM (8) cũng
tổ chức "Học
Kiều"
và tự đứng ra làm chủ khảo cho
cuộc thi "Vịnh
Kiều". Họ
Từ sớm nhận đưọc một bài
ứng thí "xỏ ngọt" rất chua chát: Khóa
cửa pḥng xuân để đợi chờ Nhưng
nghe đả kích một ông quan, dù là quan to, cũng
chưa bằng nghe đả kích vua! Năm 1945,
Việt Nam độc lập.
Vua Bảo Đại
mới nhận làm Cố Vấn Tối Cao
cho chính phủ Việt Minh (chủ tich: HỒ Chí Minh, phó chủ tịch: Nguyễn HẢI
Thần) chưa được bao lâu th́ nhân
dịp đi Trùng Khánh (Trung Quốc) đă bỏ
và về Hồng Kông để lập thế
lực khác. Khi Pháp dùng "LÁ
BÀI BẢO ĐẠI",
ông ta lại vác chiếu trở về Việt Nam
làm "Quốc
Trưởng". Cụ
cử Tùng-Lâm Lê Cương Phụng đón rước
vua Bảo Đại về nước với
một bài "Vịnh Kiều" độc
đáo: Thơ
thới đ̣i phen phận liễu bồ 4.
Thay phần kết SỢI
CHỈ kim tuyến xuyên suốt gịng lịch
sử Việt Nam là vấn đề thịnh
vượng của
giống ṇi và hạnh phúc của toàn dân.
Đó là mục đích đầu tiên và
cuối cùng, đồng thời cũng là “niềm
tin làm dậy lên như men"
để con người sống và tranh đấu.
Ngày nào mục đích này c̣n chưa
đưọc đạt tới, truyện
Kiều và dân Việt vẫn c̣n nhiều duyên
nợ ba sinh. Khi mà
đông đảo người Việt c̣n "phải
gọi người nằm thiên cổ
dậy",
chắc chắn không phải chỉ để làm
mỗi cái việc
"nghệ thuật vị nghệ thuật". Truyện
Kiều đă được dùng để
biện minh và đả kích, dụ dỗ và
phản kháng, giúp xâm lăng và chống xâm lăng,
v.v... Nhưng trong
tất cả các bài Vịnh Kiều, có lẽ bài
sau đây của Trần Huy Liệu là bài đáng
cảm khái nhất: Bạc
mệnh hồng nhan chán vạn người Riêng
với chúng ta –
những đứa con của 50 cái trứng đă
phiêu bồng, có thể lên núi hay đă xuống
bể –
truyện Kiều có
sống trong ḷng chăng cũng chỉ là
lời nhắn nhủ đơn sơ gửi
về những người con của 50 cái
trứng ở
lại : Chân
trời góc biển chơ vơ ______________________________________________________________________________ CHÚ THÍCH 1. Câu trả lời là:
Trăm
năm trong cơi người ta 2. Câu thơ nằm ở đoạn
Kiều nhớ Thúc Sinh. Thúc Sinh tên THÚC KỲ TÂM, và chữ TÂM
viết (tiếng Hán) như một vành trăng
với ba chấm. Điều
này, Nguyễn Du đă dịch lại, đă nghĩ
ra hay người đời sau tự suy diễn
ra ? 3. Duyên b́nh lăng = Duyên bèo nước. 4. Đề Oanh là gái, giả trai đi dâng
sớ kêu oan cho cha. Cha
được tha. 5. Có người nói là văn tế tên toàn
quyền Pasquier. Nhưng
Pasquier chết cháy trên máy bay năm 1933, c̣n
cụ Nguyễn thất lộc năm 1909. 6+7.
Thời xưa, các cụ chịu ảnh hưởng
quá nặng của văn học Trung Quốc nói
chung, NHO
GIÁO
nói riêng, nên không phân biệt được như
chúng ta ngày nay. Các
cụ nh́n người Pháp qua ống kiếng màu
của văn học Trung Quốc cũ nên gọi
quân Pháp là "Quân
Hồ Lỗ", đồng thời coi ḿnh có
nền văn minh như Hán (= khác xa Hồ).
Nguyễn Đ́nh Chiểu khi nói đến
phong tục ta bị Tây hóa cũng đă mượn
h́nh ảnh: Buồn
xem trong đất U Yên ẢI LANG DỨT DẤU : Lang
là chó sói. Xưa
người Trung Quốc trộn phân chó sói
với cỏ khô để khi đốt khói
sẽ lên cao. Các
cửa ải phía bắc dùng phương tiện
xông khói này để truyền tin đi khi bị
tấn công. Do
đó các ải này gọi là ẢI LANG. Khi
đă thua và bị chiếm đóng rồi th́ các
ải lang bị san bằng cả, thành ra "Ải
Lang Dứt Dấu". 8. Tổng Đốc Từ Đạm là
điển h́nh của tham quan Việt Nam theo Pháp.
Ông ta nổi tiếng tàn ác.
Thưở đó, trong nhân dân có câu: Thứ
nhất là rắn Mai hoa 9. PHỤ
THÊM: Trong
cuộc thi Vịnh Kiều do Nguyễn Khuyến làm
chủ khảo, người được
giải nhất là Chu Mạnh Trinh.
Chu có tài, nhưng cụ Nguyễn không ưa
v́ Chu đi theo Pháp. Dù
vậy, cụ cũng bị áp lực phải
lựa Chu v́ Chu là quan to (chỉ đứng sau
Tổng Đốc Lê Hoan).
Khi đọc bài vịnh của Chu thấy có
câu: Làng
nho người cũng xem ra vẻ cụ
Nguyễn chê thiếu ư thức và phê: Rằng
hay th́ thực là hay Chu
giận, bảo
vị chủ khảo "hữu
nhăn vô châu".
Biết Cụ vốn bị loà từ lâu,
Chu gửi biếu một chậu trà (Camelia
Sasanqua) đang nở hoa.
Cụ làm thơ đáp lễ: Có
khách cho ta một chậu trà Văn-Lang Tôn-thất Phương, Canberra 1985 ®
"Khi phát hành lại thông tin từ
trang này cần phải có sự đồng ư của
tác giả
|