Với hoạt động của tế
bào não, lượng huyết cầu tố được oxy hóa (oxygenated hemoglobin hay
oxy-Hb) được tiêu thụ nhiều hơn khi lượng huyết cầu tố khử oxy (deoxyhemoglobin
hay deoxy-Hb) gia tăng. Lượng oxy còn lại vì thế sẽ bị giảm; kết quả
là tín hiệu BOLD sẽ phải suy giảm. Nhưng kết quả đạt được trên thực tế
thì ngược lại: tín hiệu BOLD gia tăng với hoạt động của tế bào não như
người viết đã trình bày ở bài viết trước [1].
Đây có phải là sự
nghịch lý hay không!?
Nếu có quý bạn đọc
nào nghĩ như thế, bạn không phải là người
đầu tiên đâu!
Nghi vấn về kết quả
BOLD đã gây nhiều thắc mắc trong cộng đồng nghiên cứu về cộng hưởng từ
chức năng fMRI trong nhiều năm. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu nguyên do
gây nên hiện tượng này.
1.
Khám phá của Fox và Raichle
Mãi cho đến nhiều
năm sau khi câu hỏi về sự kiện có vẻ nghịch lý này được đặt ra, Fox và
Raichle mới tìm được giải đáp với khám phá hiện tượng xác định rằng
khi tế bào não bi kích hoạt, mạch máu nới rộng ra; lượng oxy hóa mới
được cung cấp trở nên nhiều hơn lượng máu
cần thiết [2]. Hai ông tìm được “sự kết nối không
đồng bộ” giữa lưu lượng máu trong não và lượng oxy đòi hỏi. Kết
quả nghiên cứu này cho thấy với sự kích hoạt của tế bào não, lưu lượng
máu cục bộ ở não (regional cerebral blood flow hay CBF) gia tăng; tuy
nhiên lượng oxy tiêu thụ ở não(cerebral
metabolic rate of oxygen consumption hay CMRO2) không tăng theo cùng
một tỉ lệ. Thêm vào đó, lượng máu giàu oxy mới được
cung cấp đến vùng kích hoạt trở nên nhiều hơn so với lượng máu đòi hỏi.
Sự tăng vọt của
lượng máu giàu oxy có nghĩa là hàm lượng tương đối của hemoglobin khử
oxy trong vùng hoạt động não sẽ giảm. Kết quả là hiệu quả làm giảm
thời gian hồi giãn T2/T2* của deoxy-Hb sẽ giảm và vì thế tín hiệu BOLD
trong những vùng này sẽ gia tăng (sẽ sáng hơn).
2.
Lý do tổng quát về
sự gia tăng của tín iệu BOLD
với hoạt động não
2.1
Tính nghịch từ của oxy-Hb và và thuận từ của deoxy-Hb
Có vài điểm
cần ghi nhận ở đây: (i) BOLD không đo lường trực tiếp hoạt động của
não và sự đo đạc chỉ có tính cách định tính; (ii) thêm vào đó là tính
không đồng nhất gây nên bởi sự biến đổi tỉ số của hemoglobin khử oxy (deoxy-Hb)
và hemoglobin oxy hóa (oxy-Hb) và (iii) độ tương phản BOLD sẽ được
dùng để đo tính không đồng nhất này.
Trong các
hoạt động ở vùng cục bộ trong não, nếu tỉ số deoxy-Hb/ oxy-Hb thấp,
tín hiệu BOLD (hay tín hiệu MR) sẽ gia tăng theo
quy trình dưới đây [3]:

Vì tế bào
thần kinh (neurons) không có nguồn năng lượng nội bộ thuộc dạng
glucose và oxygen, nên sự kích hoạt đòi
hỏi nhiều năng lượng để chuyển tải theo một quá trình gọi là đáp ứng
huyết động lực học (hemodynamic response). Ở quá
trình này, máu phân phối oxy đến tế bào thần kinh đang hoạt động ở một
tỉ xuất lớn hơn so với lượng máu đến tế bào thần kinh không hoạt động.
Huyết cầu tố (hemoglobin) có tính nghịch từ (diamagnetic) khi oxy
hóa nhưng có tính thuận từ (paramagnetic)
khi khử oxy (Bảng 1).
Tính thuận từ dựa vào cấu trúc của huyết
sắc tố khử oxy với 4 điện tử không ghép cặp ở mỗi trung tâm của nguyên
tử sắt (Hình 1c và Hình 2).
Trong khi đó, vì huyết sắc tố oxy hóa không có
điện tử không ghép cặp, nên mang tính nghịch từ mặc dù rất yếu [1].

Bảng 1.
Đặc tính của hemoglobin khử oxy và hemoglobin
được oxy hóa.
Độ cảm
từ (magnetic susceptibility)) tỉ lệ với số điện tử không ghép cặp N
theo dạng thức N(N+2); với N= số điện tử
không ghép cặp. Thời gian hồi giản T2 và T2* tỉ lệ với bình phương của
độ cảm từ (nguồn: Dr. Klioze’s
lecture)..
2.2
Lý do tổng quát
Máu luân
lưu trong cơ thể theo một hệ thống tuần
hoàn kín (closed circulating system).
Máu giàu
oxy chảy từ phổi ngang qua buồng bên trái
của tim đến những mô chuyển hóa (metabolizing tissues) của cơ thể (đi
theo hướng xa rời tim). Máu chảy từ phổi thu hút
lượng oxy trong không khí thông qua chất đạm ở huyết cầu tố
(hemoglobin protein) trong tế bào máu đỏ. Máu này
giàu oxy, mang nhiều chất dinh dưỡng như glucose, amino acids và
vitamins. Máu khử oxy chảy từ những mô chuyển hóa của cơ thể
xuyên qua buồng tim bên phải đến buồng phổi
(đi về hướng tim). Máu này giàu bicarbonate HCO3 và chất thải chuyển
hóa (metabolic waste) như chất urê (urea).
Hình 1 biểu hiện
một phần của sự luân lưu này.

Hình 1.
Sự chuyển lưu của máu ở trạng thái tĩnh
với động mạch nhỏ (arterioles) và tĩnh mạch nhỏ (venules) vận chuyển
lượng oxy trong cơ thể. Sự phân phối của hemoglobin được oxy hóa và
hemoglobin khử oxy theo thứ tự nằm ở phía
bên trái và bên phải trong hình (Google Images).
Hìình
1(a):
Động mạch
(artery) và tĩnh mạch (vein) đều là những
mạch máu (blood vessel) vận chuyển oxy trong cơ thể.
Về cấu trúc, tĩnh mạch gồm có bức tường có màn cơ
bắp mỏng và đàn hồi. Trong khi đó động mạch
có một lớp cơ bắp dày và đàn hồi. Giữ động mạch dày là điều
quan trọng trong việc xử lý áp xuất cao
của máu cung cấp từ tim (120/80 mm Hg). Tĩnh mach
mang máu thiếu oxy (khử oxy) đến tim trong khi đó động mạch
vận chuyển máu giàu oxy ra khỏi buồng tim. Tĩnh
mạch không cần phải dày vì chỉ hoạt động với máu ở áp xuất thấp (5
mmHg). Sự khác nhau chính giữa động mạch và
tĩnh mạch nằm ở sự kiện là tĩnh mạch liên quan đến việc loại bỏ chất
phế thải từ môi trường ngoài tế bào; trong khi đó sự hoạt động của
động mạch liên quan đến việc cung cấp dinh dưỡng và oxy đến tế bào
trong cơ thể.
Trong hình này, venule là mạch
máu (vein) rất nhỏ, đặc biệt dùng để thu thập máu từ mao quản
(capillaries) . Tương tự như vậy, động mạch nhỏ (arteriole) là nhánh
nhỏ của động mạch (artery) dẫn vào mao quản.
Mao quản là những mạch máu
(vessels) nhỏ có tường mỏng nối động mạch nhỏ (arterioles) với
venules (tĩnh mạch nhỏ). Qua mao quản, chất dinh dưỡng và chất phế
thải có thể hoán đổi giữa máu và mô cơ thể (body tissues)
Hình 1(b) và Hình 2(a) : triển
khai cấu trúc ở Hình 1(a):
Phần có màu đỏ (phía bên trái trong hình)
dành để cung cấp oxy (oxy Hb), trong khi đó phần màu xanh nằm phía bên
phải của hình biểu hiện sự hoạt động của hemoglobin khử oxy (deoxy-Hb).
Ở trạng thái tĩnh, neurons để vùng màu xanh ở trạng thái tĩnh-không
can thiệp
Astrocyte
là một tế bào lớn, hình sao dùng để giữ tế bào thần kinh (nerve cells)
ở vị trí quy định và giúp những tế bào này phát triển và hoạt động
theo khả năng định sẵn.
Những tế
bào nơ rôn nhằm hổ trợ sự kích thích chất dẫn truyền thần kinh
(neurotransmitter) chung quanh neurons được
gọi là astrocytes. Những tế bào này nhằm cung cấp
chất dinh dưỡng và nới rộng mạch máu (vessel).
Nhiều oxy và chất dinh dưỡng được chuyển tải đến
những tế bào thần kinh đang hoạt động– vùng màu đỏ sẽ giãn nở rộng lớn
hơn.
Ngay sau
khi bị kích hoạt, sẽ có nhiều lượng oxy thu
hút từ mao quản (capillaries), để lại một số lớn deoxy-Hb. Và chúng ta
sẽ nghĩ là sẽ có một số lượng lớn đáng kể deoxy-Hb, đưa đến sự giảm
thiểu tín hiệu BOLD?
Thế tại sao
tín hiệu BOLD lại gia tăng với hoạt động của não?
Não
không tồn trữ năng lượng; vì vậy tùy thuộc hoàn
toàn vào sự cung cấp năng lượng từ lượng máu cục bộ. Hầu hết những mô
chuyển hóa đang hoạt động (metabolically active tissues)
trong cơ thể sở hữu dưới một số dạng thức như nguồn dự trữ
oxy cục bộ và năng lương có thể được dùng đến trong giai đoạn có nhu
cầu cao. Tín hiệu BOLD sẽ cao hơn tùy thuộc vào sự gia tăng hàm
lượng huyết cầu tố được oxy hóa và vì sự cải thiện về độ cảm biến từ
(susceptibility artifacts) do độ cảm ứng từ của máu lúc này ăn khóp
hơn với độ cảm ứng từ của mô.
Trở về
trường hợp của lưu lượng máu.
Khi sự suy giảm của lưu lượng máu cục bộ ở não (CBF) vượt quá sự thay
đỗi trong lượng oxy tiêu thụ, cường độ của tín hiệu BOLD sẽ giảm. Tình
trạng ngược lại sẽ đưa đến sự gia tăng tín hiệu BOLD.
Những sự
biến đổi này có thể dương (positive) hay âm (negative) tùy thuộc vào
sự thay đổi tương đối ở lưu lượng máu trong não (CBF) và tỉ suất
chuyển hóa của lượng oxy tiêu thụ (CMRO2). Mạch
máu giãn nở rộng hơn, lưu lượng máu ở não CBF gia tăng nhiều hơn.
Với lượng oxy cung cấp nhiều hơn lượng oxy cần
thiết, sự kiện này sẽ đưa đến sự gia tăng oxy như được biểu hiện ở
phần bên phải- màu xanh giờ trở thành màu đỏ ở Hình 2(c). Điều
sẽ xảy ra khi sự gia tăng ở CBF vượt quá lượng tiêu thụ oxy. Kết quả
là tín hiệu BOLD tăng lên (sáng hơn) do sự
gia tăng lượng hemoglobin được oxy hóa như có thể thấy ở Hình 2(b).
Bắng cách
thu thập dữ liệu trong MRI scanner với sự
thay đổi tuần tự của độ cảm từ, chúng ta có thể đánh giá sự thay đổi
của tín hiệu BOLD. Mặc dù sự khác biệt này rất nhỏ để có thể ghi nhận,
nhưng cứ lập lại thí nghiệm nhiều lần và với phương
pháp thống kê hữu hiệu, chúng ta có thể xác định vùng hoạt động trong
não bộ một cách đáng tin cậy hơn.

Hình 2.
Sự phân phối của hemoglobin đựợc oxy hóa và
hemoglobin khử oxy khi tế bào não ở trạng thái tĩnh (Hình 2a) và trong
trạng thái hoạt động (hình 2c) . Vùng kích thích sáng lên vì sự gia
tăng hemoglobin được oxy hóa (Hình 2b). Trong hình này, mao quản
(capillaries) là những mạch máu nhỏ có tường mỏng kết nối arterioles
với venules (tĩnh mạch nhỏ). Qua mao quản, chất dinh dưỡng
(nutrients) và chất phế thải (waste) có thể hoán đổi giữa máu và mô
cơ thể (body tissues) (Google Images).
3.
Kết từ
Cộng hưởng từ chức
năng fMRI được thiết lập dựa vào sự gia tăng tìn hiệu BOLD với hoạt
động của não bộ. Đã mất cộng động khoa học nhiều
năm trước khi tìm được lý do để cắt nghĩa hiện tượng có vẻ
nghịch lý này.
Trên thực tế thì oxy hay những nguồn
năng lượng hầu hết đến từ lưu lượng máu cục bộ.
Và lượng máu này cung cấp oxy với một số lượng rất
nhiều so với số lượng đòi hỏi. Kết quà là lượng máu giàu oxy
gia tăng đưa đến sự gia tăng tín hiệu BOLD. Và khu vực có hoạt động
não sẽ sáng hơn là khu vực ở trạng thái tĩnh. Tương phản hình BOLD đạt
được do sự biến đổi hàm lượng máu cục bộ
của oxy-Hb đối với deoxy-Hb. Thời gian hồi giãn T2* và vì thế tín hiệu
MRI sẽ gia tăng ở vùng não hoạt động.
Trong bài tới, người viết sẽ trình bày
những kết quả thực nghiệm liên quan đến đề tài này.
4.
Tài liệu tham khảo
[1]
http://www.erct.com/2-ThoVan/TTriNang/Technology%20in%20Medicine-%20Part%2028-Hieu-Ung-BOLD.htm
[2]
M.D. Fox and M. E. Raichle.
Spontaneous fluctuations in brain activity observed with functional
magnetic resonance imaging
.
2007 Sep;8(9):700-11.
doi:
10.1038/nrn2201.
February
9, 2023
|