Kinh tế Việt Nam trong tầm nhìn đối chiếu với các nước Đông Á *

Trần Văn Thọ - GS Đại học Waseda, Nhật Bản

   Nhìn lại nửa sau thế kỷ XX và so sánh Việt Nam với các nước khác trong khu vực Đông Á, cho đến đầu thập niên 1990, điểm nổi bật là khoảng cách kinh tế ngày càng mở rộng giữa ta với các nước lân cận. Từ cuối thập niên 1950, các nước Đông Á nối tiếp nhau phát triển mạnh với đặc trưng là công nghiệp hoá tiến hành sâu rộng khắp khu vực. Vì điều kiện lịch sử Việt Nam đã mất đi mấy mươi năm phát triển và bị tụt hậu so với các nước chung quanh. Sau một số năm kể từ khi đổi mới, kinh tế Việt Nam lại bắt đầu nhập cuộc vào dòng thác công nghiệp tại Á châu. Hiện nay vị trí của Việt Nam ở đâu và đâu là điều kiện để rút ngắn khoảng cách với các nước chung quanh?

   Trước năm 1993 các chỉ tiêu kinh tế của Việt nam được tính theo hệ thống sản xuất vật chất (material product system -MPS) do đó phải tính toán lại và quy đổi các chỉ tiêu ấy sang các chỉ tiêu theo hệ thống tài khoản quốc gia (system of national account, SNA) của Liên Hiệp Quốc mới so sánh được nhịp độ phát triển và cấu tạo của kinh kế Việt Nam với kinh tế các nước trong khu vực. Dựa trên kết quả nghiên cứu và tính toán của chúng tôi 6 năm truớc,[1] chương nầy sẽ đánh giá tình hình phát triển của kinh tế Việt Nam trong nửa sau thế kỷ 20 và thử đánh giá khoảng cách phát triển giữa Việt Nam với các nước trong khu vực Đông Á vào cuối thế kỷ nầy. Cuối cùng nêu một số suy nghĩ về khả năng và điều kiện để Việt Nam rút ngắn được khoảng cách với các nước chung quanh trong mấy thập niên đầu của thế kỷ 21. Phần cuối của chương nầy sẽ cho thấy con đường rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước chung quanh là phải tiến hành công nghiệp hoá, một chủ đề xuyên suốt cuốn sách nầy.

   I. Kinh tế Việt Nam và Đông Á từ giữa thế kỷ 20: 

   Như Biểu 1-1 cho thấy, trong thời kỳ 1950-1973 (riêng Việt Nam là 1955-1975), Nhật là nước có tốc độ phát triển vượt bậc, với GDP bình quân đầu người tăng mỗi năm 8%, như vậy mức sống thực tế của người Nhật cứ 8-9 năm lại tăng gấp đôi.  Việt Nam cùng với Trung Quốc và Phi-li-pin thuộc vào nhóm phát triển thấp nhất, với mức tăng GDP bình quân đầu người chỉ trên dưới 2%, và như vậy các nước nầy cần tới 35 năm để tăng gấp đôi mức sống của dân chúng. Ba nước có ba bối cảnh chính trị khác nhau nhưng có chung đặc điểm là bối cảnh chính trị đã kìm hãm mạnh sự phát triển của lực lượng sản xuất.  

   Tại Việt Nam hầu hết thời kỳ nầy có đặc điểm là kinh tế thời chiến và chia làm hai miền có thể chế kinh tế, chính trị khác nhau. Kinh tế Miền Bắc phát triển bình quân năm là 6% (GDP đầu người bình quân năm tăng độ 3%), miền Nam phát triển 3.9% (bình quân đầu người tăng 0,8%). Đặc biệt miền Nam phát triển ở số âm trong giai đoạn 1965-75 có lẽ phần lớn do chiến tranh đã lan rộng khắp miền và ở mức độ quyết liệt. Trong thời gian đó, như đã thấy ở Biểu 1-1, trừ Trung Quốc và Phi-li-pin, các nước Á châu đã đạt một thành quả đáng kể, đặc biệt là các nước mà vào năm 1979 OECD gọi là các nước công nghiệp mới (NICs) và sau này gọi là các nền kinh tế công nghiệp mới (NIEs) như Hàn Quốc và Đài Loan, v.v.. Từ khoảng đầu thập niên 1960, nhiều nước Đông Á đã tiến hành chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu và sang thập niên 1970, các nước NIEs chuyển sang chiến lược hướng về xuất khẩu và bắt đầu cạnh tranh với Nhật trong những ngành công nghiệp có hàm lượng lao động cao.

   Từ giữa thập niên 1960, tỉ trọng công nghiệp trong GDP của Nhật đã đạt đỉnh cao 35% và dừng lại ở đó trong một thời gian khá dài, trong lúc đó Hàn Quốc đuổi theo Nhật với tốc độ rất nhanh. Các nước ASEAN, đặc biệt là Thái Lan và Ma-lai-xia, với một tốc độ chậm hơn, cũng tích cực tham gia vào quá trình công nghiệp hoá tại khu vực nầy. Từ cuối thập niên 1970, làn sóng công nghiệp Á châu bắt đầu lan sang Trung Quốc.

    Trong giai đoạn hai (1973-1996), sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế từ nông sang công nghiệp và chuyển dịch trong nội bộ bộ môn công nghiệp từ những ngành có hàm lượng lao động cao sang các ngành dùng nhiều tư bản và công nghệ đã đưa nền kinh tế các nước Á châu phát triển với tốc độ cao hơn giai đoạn truớc. Như Biểu 1 cho thấy, trong giai đoạn nầy, trừ Nhật Bản, Phi-li-pin và Việt Nam, GDP bình quân đầu người tại các nước Đông Á đã tăng vọt so với giai đoạn trước (Đài Loan giữ mức rất cao của giai đoạn trước). Đặc biệt từ giữa thập niên 1980, làn sóng công nghiệp Á châu bước sang giai đoạn mới có sự thay đổi lớn về chất, với tốc độ cao của công nghiệp hoá tại Trung Quốc và ASEAN và sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp ở các nước diễn ra nhanh chóng. Nhật Bản dần dần chuyển sang thời đại sau công nghiệp nhưng vẫn duy trì sức cạnh tranh trong ngành nầy nhờ chủ động chuyển dịch cơ cấu công nghiệp sang các ngành có hàm lượng công nghệ, tri thức cao như xe hơi và các sản phẩm điện tử cao cấp, các loại máy móc kết hợp nhiều ngành công nghệ khấc nhau. Nhiều cơ sở sản xuất các sản phẩm đồ điện gia dụng như TV, tủ lạnh, máy giặt, và các bộ phận, linh kiện xe hơi, điện tử chuyển nhanh từ Nhật sang các nước Á châu khác. Các nước NIEs như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, cũng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp từ các ngành dùng nhiều lao động sang các ngành có hàm lượng cao về tư bản và công nghệ.

   Bối cảnh của sự biến đổi về chất trong làn sóng công nghiệp Á châu từ giữa thập niên 1980 là gì? Có thể nêu ra ba điểm: Thứ nhất, có sự thay đổi trong thái độ của các nước ASEAN và Trung Quốc về hoạt động của các xí nghiệp đa quốc gia. Trước đây, đặc biệt là trong giai đoạn trước 1975, các nuớc nầy lo ngại các công ty đa quốc gia chi phối kinh tế nên họ đã ngăn cản hoặc hạn chế hoạt động của các công ty nầy. Cách nhìn nầy đã thay đổi từ thập niên 1980 nên tạo điều kiện cho tư bản, công nghệ và tri thức quản lý kinh doanh di chuyển nhanh tù các nước tiên tiến chủ yếu là Nhật. Thứ hai, đồng tiền yen của Nhật tăng giá nhanh trong thời gian r ấtrt ngắn (chỉ 3 năm từ 1985 đến 1988 giá trị của đồng đô la Mỹ giảm một nửa từ 254 yen còn 127 yen) làm cho phí tổn sản xuất tại Nhật tăng vọt, công ty Nhật phải đối phó bằng việc đẩy mạnh đầu tư nước ngoài. Thứ ba, các nước NIEs bắt đâu chuyển từ địa vị là nước nhập khẩu tư bản và công nghệ sang nước xuất khẩu các nguồn lực sản xuất nầy. Ba yếu tố nầy đã làm cho tư bản, công nghệ và tri thức quản lý kinh doanh di chuyển nhộn nhịp trong vùng Á châu Thái bình dương và do đó đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá tại vùng nầy. Chương 2 sẽ bàn sâu hơn về hiện tượng lan rộng công nghiệp hoá tại Đông Á.

  Trong thời kỳ nầy, Việt Nam vẫn thuộc nhóm nước phát triển thấp nhất tại khu vực với GDP bình quân đầu người chỉ tăng 2,8%. Con số nầy cao hơn giai đoạn trước là nhờ thành quả của đổi mới. Đổi mới bắt đầu phát huy tác dụng từ năm 1992, nếu lấy năm 1991 làm mốc chia giai đoạn 1975-95 thành 2 thời kỳ thì sẽ thấy như sau: Trong thời kỳ 1976-91, GDP bình quân đầu người chỉ tăng 1,9% (GDP phát triển 4,1% nhưng dân số tăng 2,2%), bằng mức phát triển của giai đoạn 1955-75, nhưng qua thời kỳ 1991-95, GDP bình quân đầu người đã tăng vọt lên 6,6% (GDP tăng 8,8% và dân số tăng 2,2%), tương đương với thành quả của Đài Loan và Hàn Quốc trong giai đoạn 1973-96.

   Như vậy suốt từ 1955 đến đầu thập niên 1990, GDP đầu người của Việt Nam chỉ tăng dưới 2%. Điều nầy có nghĩa là một người Việt Nam phải cần 35 năm mới tăng gấp đôi thu nhập và mức sống của mình, trong khi đó Đài Loan chỉ cần 11 năm và Thái Lan chỉ cần 15 năm.

   Vào giai đoạn 3, giai đoạn gần đây nhất (1995-2003)[2], nhóm nước có thành quả nổi bật là Trung Quốc và Việt Nam. Trung Quốc đã đạt được thành quả tương đương với thời đại phát triển thần kỳ của Nhật trong giai đoạn 1950-73 và Việt Nam tương đương với Hàn Quốc, Đài Loan trong các giai đoạn truớc. Nhật tiếp tục giai đoạn suy thoái kéo dài từ năm 1992. Các nước khác bị suy thoái nặng trong năm 1998 vì cuộc khủng hoảng tài chánh năm 1997 nhưng hồi phục dần từ năm 1999. Biểu 1-1 chỉ cho thống kê đến năm 2003 nhưng nếu khảo sát thêm những năm sau đó sẽ thấy Thái Lan hồi phục nhanh hơn sau năm 2003. Nhìn chung, ngoài Trung Quốc và Việt Nam, các nước Đông Á trừ Inđônêxia từ cuối thập niên 1990 có mức tăng GDP đầu ngưòi trung bình là 3-4%.[3] Nếu thành quả của VN ở giai đoạn gần đây được kế tục trong thời gian dài trong tương lai, Việt Nam sẽ nhanh chóng đuổi kịp các nước nhiều nước chung quanh.

   Có thể nêu ra 2 nhóm yếu tố giải thích thành quả phát triển đáng ghi nhận trong giai đoạn 1995-2003. Nhóm thứ nhất liên quan đến những nỗ lực, những chính sách đổi mới mạnh dạn từ năm 1989 tạo điều kiện để cơ chế thị truờng hoạt động, dần dần khơi dậy được nguồn lực phát triển trước hết trong bộ môn nông nghiệp sau đó là các bộ môn công nghiệp và dịch vu, song song với việc khắc phục nguy cơ lạm phát phi mã. Nhờ đó từ năm 1993 kinh tế Việt Nam vừa phát triển vừa khắc phục lạm phát và thành quả đó tiếp tục trong giai đoạn từ năm 1995. Nhóm yếu tố thứ hai liên quan đến tình hình quốc tế ngày càng thuận lợi cho Việt Nam. Nhật viện trợ từ cuối năm 1992, cộng đồng các nhà tài trợ gồm các nước phát triển và các cơ quan quốc tế bắt đầu cung cấp ODA cho ta từ năm 1993 do đó việc xây dựng cơ sở hạ tầng tiến triển nhanh và đi vào kế hoạch.

  Hai nhóm yếu tố nầy đã tạo cơ sở để Việt Nam tham gia vào sự phân công quốc tế tại vùng năng động châu Á Thái bình dương. Cho đến năm 1994, hơn 70% ngoại thương của Việt Nam đã tập trung tại vùng nầy (trước năm 1990 hơn 70% kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam nằm trong quan hệ với Liên Xô cũ và các nước Đông Âu). Đặc biệt đầu tư nước ngoài (FDI) tăng nhanh trong giai đoạn nầy mà chủ yếu là do các công ty đa quốc gia từ Nhật và các nước NIEs triển khai chiến lược cấu trúc lại cơ cấu công nghiệp toàn vùng châu Á Thái bình dương.

   III. Định vị kinh tế Việt Nam vào đầu thế kỷ 21:

  So với các nước chung quanh, trình độ phát triển của kinh tế Việt Nam hiện nay nằm ở đâu? Sau đây ta thử so sánh Việt Nam với Thái Lan, hai nước có số dân xấp xỉ như nhau (vào năm 1990 dân số Việt Nam 66 triệu, Thái Lan 56 triệu; vào cuối năm 2003 dân số VN là 81 triệu và Thái Lan là 63 triệu), có cấu tạo tài nguyên gần giống nhau, và nhất là vào thập niên 1950, hai nước hầu như có cùng trình độ phát triển.[4]/ Ngoài ra, tuỳ theo văn mạch, Trung Quốc cũng sẽ là đối tượng so sánh với Việt Nam mặt dù không khảo sát chi tiết như trường hợp Thái Lan. Trung Quốc là nước lớn nhưng có thể chế chính trị, kinh tế giống Việt Nam và cũng đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu nên sự so sánh cũng hữu ích.[5]/

 Việc so sánh trình độ phát triển của nước này với nước khác không phải dễ vì khó có một chỉ tiêu tổng hợp nào có thể biểu diễn tổng quát trình độ phát triển của một nước. Tuy nhiên, khảo sát một nhóm các chỉ tiêu cơ bản ta cũng có thể có một hình dung tương đối đầy đủ.

Một chỉ tiêu thường được đem so sánh là tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm trong nước (GDP) tính trên đầu người. Theo tư liệu của Ngân hàng thế giới, vào năm 2003, GNP đầu người ở Việt Nam là 480 USD, ở Thái Lan là 2.190 USD và Trung Quốc là 1.100 USD (Biểu 1-2). Tuy nhiên, những con số nầy không phản ảnh mức sống của dân chúng vì sức mua của đồng đô-la khác nhau giữa nước này với nước khác. Để so sánh chính xác hơn phải dùng GNP hoặc GDP tính theo tỉ giá so sánh ngang sức mua (PPP) . Biểu 1-2 cho thấy vào năm 2003, GNP trên đầu người theo PPP của Việt Nam gần 2.500 USD, xấp xỉ bằng 1/2 của Trung Quốc và Phi-li-pin, và người Thái Lan có mức sống cao hơn người Việt Nam độ 3 lần. 

 

Bảng 1.2. Kinh tế một số nước Châu Á vào năm 2003

Các nước

Tính theo tỷ giá hiện hành

Tính theo sức mua ngang giá (PPP)

GNP

(tỷ USD)

GNP đầu người

GNP
(tû USD)

GNP đầu người

(USD)

Tỷ lệ với VN (VN=100)

(USD)

Tỷ lệ với VN (VN=100)

Việt Nam

39

480

100

202

2.490

100

Trung Quốc

1.417

1.100

229

6.435

4.990

200

Thái Lan

136

2.190

456

462

7.450

299

Malaixia

94

3.780

788

222

8.940

359

Inđônêxia

173

810

169

689

3.210

129

Philíppin

88

1.080

225

379

4.640

186

Hàn Quốc

576

12.020

2.504

859

17.930

720

Nhật Bản

4,390

34.510

7.190

3.641

28.620

1.149

Nguồn:  The World Bank, World Development Report 2005.

Tuy nhiên ở đây còn hai vấn đề nữa. Thứ nhất là vấn đề phân phối. Nếu việc phân phối lợi tức quá bất bình đẳng thì ý nghĩa của việc tăng tổng sản phẩm trên đầu người bị giảm đi. Vấn đề thứ hai liên quan đến môi sinh, môi trường, điều kiện làm việc. Hai nước dù có cùng thu nhập trên đầu người (trên cơ sở PPP) nhưng khác nhau ở mặt này thì rõ ràng là chất lượng cuộc sống của dân chúng không giống nhau. Tóm lại, nếu ta phát triển công bằng hơn và trong điều kiện môi trường, môi sinh tốt hơn thì không cần phải đạt gần 7.500 USD mới bằng mức sống của Thái Lan hiện nay.

Một cụm các chỉ tiêu khác chỉ trình độ phát triển của một nước liên quan đến trình độ chuyển dịch cơ cấu của một nền kinh tế. Những nước có mật độ dân số đông và xuất phát từ nền nông nghiệp lạc hậu phải qua con đường công nghiệp hoá mới phát triển được và mới hiện đại hoá được bản thân nền nông nghiệp. Thống kê của Ngân hàng thế giới cho thấy vào năm 1994, tỉ trọng của công nghiệp trong GDP của Việt Nam độ 22%, xấp xỉ trình độ của Thái Lan vào khoảng năm 1980. Theo tính toán của Vũ Quang Việt (1994), chuyên viên cao cấp về thống kê của Liên Hiệp Quốc, thì vào năm 1993, tỉ lệ nầy của Việt Nam chỉ có 15%. Trong cuốn sách xuất bản 8 năm trước, chúng tôi căn cứ trên con số nầy và đánh giá là tỉ lệ của bộ môn công nghiệp trong GDP của Việt Nam tương đương với Thái Lan vào năm 1970 (Trần VT 1997, Chương 15). Dĩ nhiên sau năm 1993, công nghiệp của Việt Nam phát triển nhanh và vào thời điểm gần đây, theo World Development Indicators của Ngân hàng thế giới, tỉ lệ ấy của VN đã vượt quá 20%, tương đương với Thái Lan vào đầu thập niên 1980 (Thái Lan vào năm 2001 là 32%).

Về tỉ lệ của hàng công nghiệp trong tổng xuất khẩu, vào năm 2002 Việt Nam đã vượt mức 50%, tương đương với Thái Lan vào đầu thập niên 1980. Kết hợp với thống kê về tỉ lệ sản xuất công nghiệp trong GDP, có thể nói tiến trình công nghiệp hoá của VN đi chậm hơn Thái Lan độ 20 năm.

Tổng hợp hai chỉ tiêu công nghiệp hoá và với vài phân tích bổ sung, ta có thể kết luận là vào đầu thế kỷ 21, Việt Nam đi chậm hơn Thái Lan độ 20 năm. Tám năm trước, căn cứ trên thống kê năm 1993 hoặc 1994, tôi đã cho rằng Việt Nam đi chậm hơn Thái Lan độ 25 năm (Trần VT 1997, Chương 15). Hai con số 25 năm và 20 năm vào hai thời điểm 1997 và 2003 nên được đánh giá như thế nào? Việt Nam đã phát triển nhanh hơn Thái Lan trong giai đoạn sau năm 1993 nên vào thời điểm gần đây, khoảng cách giữa Việt Nam và Thái Lan phải ngắn hơn khoảng cách 25 năm. Đây là lãnh vực khó có sự chính xác về con số cụ thể nên ta có thể hình dung khoảng cách hiện nay giữa hai nước là độ 20 năm.

III. Chiến lược rút ngắn khoảng cách phát triển

Phân tích trong phần trên cho thấy một cách khái quát là VN đi chậm hơn Thái Lan độ 20 năm. Tuy nhiên ở đây không có nghĩa là ta phải cần một thời gian như vậy mới bằng mức của Thái Lan bây giờ. Các nước đi sau nếu có chính sách đúng đắn có thể đốt giai đoạn và đây là khuynh hướng chung có thể thấy trong trường hợp của Nhật, Hàn  Quốc và nhiều nước khác. Thêm vào đó, như đã nói ở trên, nếu ta phát triển trong sự phân phối đồng đều hơn, và trong điều kiện môi sinh, môi trường tốt hơn, nghĩa là chất lượng phát triển tốt hơn, thì ta có thể đạt được mức sống bằng Thái Lan bây giờ với mức lợi tức đầu người thấp hơn.

So với Thái Lan, Việt Nam hiện nay có một số lợi thế, nhất là về mặt nhân lực. Biểu 1-3 tóm tắt một số chỉ tiêu về việc phát triển con người. Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) tổng kết các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, thu nhập, đã đưa ra một chỉ số tổng hợp về việc phát triển nhân lực (human development index) của 177 nước. Theo Human Development Report 2004 (UNDP), vào năm 2002, Việt Nam xếp thứ 112 và Thái Lan thứ 76, Trung Quốc thứ 94 với chỉ số ghi ở Biểu 1-3. Nếu xếp hạng theo bình quân đầu người của GDP tính theo PPP thì Việt Nam đứng thứ 124, Thái Lan 67 và Trung Quốc 99. Các thống kê nầy cho thấy so với GDP đầu người, Việt Nam có trình độ về nguồn nhân lực tương đối cao. Nếu nhìn các chỉ tiêu về nguồn nhân lực ở một số khía cạnh hẹp hơn như tỉ lệ người lớn biết chữ, ta thấy Việt Nam xấp xỉ Trung Quốc và không thua kém bao nhiêu so với Thái Lan (Biểu 1-3).

Mặc dù tình hình giáo dục xuống cấp ở Việt Nam hiện nay đương làm nhiều người lo ngại, nhưng nhìn vấn đề ở một góc độ khác, có thể nói nếu những vấn đề giáo dục hiện nay được quan tâm giải quyết triệt để thì trình độ về nguồn nhân lực của Việt Nam sẽ được nâng cao hơn nữa và nếu lợi thế này được phát huy, khả năng rút ngắn khoảng cách với các nước chung quanh sẽ rất lớn.

Một thuận lợi khác của Việt Nam là vị trí địa lý với bờ biển dài tiếp cận dễ dàng với các nước phát triển trong khu vực. Yếu tố nầy cùng với sự ổn định về chính trị. xã hội và tiềm năng về con người nói trên đã làm cho xí nghiệp nước ngoài quan tâm nhiều đến Việt Nam từ đầu thập niên 1990. Nếu môi trường đầu tư được cải thiện, ta sẽ không thiếu tư bản, công nghệ và tri thức kinh doanh cần thiết để đuổi theo các nước chung quanh trong quá trình phát triển.

Thuận lợi thứ ba là cách bài trí các thành phố, các trung tâm kinh tế trong cả nước, tương đối hài hoà. Nếu có kế hoạch từ bây giờ, dân số và hoạt động kinh tế sẽ được phân tán rộng khắp cả nước, tránh tình trạng ô nhiễm môi trường và ngăn ngừa sự chênh lệch quá lớn về lợi tức giữa các tầng lớp dân chúng và giữa các khu vực. Đây là điều kiện để nâng cao chất lượng của việc phát triển.

Những thuận lợi vừa nói chỉ là tiềm năng. Phải khơi dậy các tiềm năng nầy để kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững. Nếu có quyết tâm vì sự nghiệp phát triển đất nước và từ đó ưu tiên tạo ra các cơ chế khơi dậy tiềm năng và tập trung trí tuệ đặt ra chiến lược phát triển đúng đắn, Việt Nam co thể phát triển bình quân trên dưới 9% năm (GDP đầu người bình quân tăng độ 7-8% năm) trong 20 năm đầu của thế kỷ 21. Thực hiện được mục tiêu nầy thì cứ 10 năm mức sống của người Việt nam sẽ tăng gấp đôi. Để kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững trong thời gian dài như vậy phải vừa đẩy nhanh quá trình tích luỹ tư bản vừa tạo điều kiện để kinh tế phát triển có hiệu suất. Ta thử bàn thêm hai điểm này.

Thứ nhất, vấn đề tích luỹ tư bản. Vấn đề hiện nay của Việt Nam là phải tạo môi trường thuận lợi để kích thích tư bản trong nước và nước ngoài tích cực đầu tư. Giữa những năm 1990, tỉ lệ của tổng đầu tư trong GDP tăng nhanh, đạt mức 27-28% nhưng sau đó giảm mạnh. Điều nầy một phần do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Á châu nhưng phần quan trọng là do bộ máy hành chánh kém hiệu suất làm cho phí tổn hành chánh trong hoạt động đầu tư quá cao. Phương châm, đường lối về việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã có nhưng trên thực tế, thành phần phi quốc doanh vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn, trong việc tiếp cận với thông tin về cơ hội đầu tư, về thị truờng. Việc định hướng chiến lược công nghiệp hoá không rõ ràng và phương châm, chính sách hay thay đổi làm cho độ rủi ro của các dự án đầu tư quá cao. Từ năm 2002 tỉ lệ của tổng đầu tư trong GDP tăng trở lại đạt đến gần 34% vào năm 2003, nhưng ngược lại đó là do hiệu quả của việc chạy đua trong việc lập dự án đầu tư của các bộ ngành, của các địa phương chứ không phải là hiện tượng tích luỹ tư bản lành mạnh. Điều nầy thể hiện trong việc giảm sút hiệu quả của đồng vốn đầu tư, phản ảnh trong khuynh hướng gia tăng  hệ số ICOR.[6]

 Để tích luỹ tư bản nhanh và có hiệu quả cần tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tuy nhiên, FDI giảm liên tục từ năm 1997, gần đây mới hồi phục nhưng còn yếu ớt. Trong tình trạng xí nghiệp tư nhân trong nước còn nhỏ bé và các doanh nghiệp nhà nước còn yếu kém và đương trong quá trình cải cách, nếu không có một sự xoay chiều mạnh mẽ trong FDI thì liệu kinh tế VN có tăng trưởng được ở mức cao hay không? Nhìn sang các nước Á châu lân cận, ta thấy họ ngày càng nhận thức vai trò quan trọng của FDI trong xu thế toàn cầu hoá, đương ra sức tạo điều kiện để thu hút FDI hơn nữa. Các nước nầy với quá trình phát triển và thu hút FDI trong nhiều thập kỷ đã xây dựng được một nền công nghiệp vững mạnh hơn VN rất nhiều. Có thể nói trình độ kỹ thuật, công nghệ, bề dày của tri thức quản lý kinh doanh tại các nước này đã tăng nhanh và phụ thuộc nhiều vào độ lớn của FDI được tích luỹ (FDI stock). Là một nước đi sau, FDI stock của VN quá nhỏ so với các nước lân cận là đương nhiên. Nhưng vấn đề đáng quan tâm ở đây là dòng chảy hàng năm  (flow)  của FDI vào VN cũng quá nhỏ so với Thái Lan chẳng hạn. Để rút ngắn khoảng cách, thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, phải quan tâm hơn đến vai trò của FDI. Điểm nầy sẽ được phân tích sâu hơn ở Chương 12./[7]

   Thứ hai là vấn đề phát triển có hiệu suất. Cùng với việc đẩy mạnh tích luỹ tư bản, phát triển có hiệu suất là biện pháp hữu hiệu nhất để rút ngắn khoảng cách với các nước chung quanh. Tích luỹ tư bản dù được đẩy mạnh cũng không thể vượt qua một giới hạn vì vấn đề môi trường và những hạn chế về vốn, về công nghệ và thị truờng, v.v.. Do đó với cùng một tốc độ về tích luỹ tư bản nhưng nước nào phát triển có hiệu suất thì nền kinh tế sẽ phát triển với tốc độ cao hơn. Biểu 1-4 cho thấy các nước, các nền kinh tế như Trung Quốc, Thái Lan, Ma-lai-xia, Đài Loan và Hàn Quốc trong giai đoạn 1960-1994, tích luỹ tư bản đóng vai trò rất lớn, lớn hơn cả Nhật Bản trong giai đoạn 1950-1973 là giai đoạn phát triển thần kỳ của nước nầy, nhưng Nhật Bản phát triển có hiệu suất hơn nhiều (diễn tả bằng độ cống hiến của hiệu suất toàn yếu tố tức total factor productivity, TFP) nên tốc độ tăng trưởng của kinh tế Nhật cao hơn các nước Á châu khác.

Điểm nầy có nhiều gợi ý đối với Việt Nam. Để phát triển có hiệu suất, Việt Nam cần phải làm gì? Tôi đã có dịp phân tích trong cuốn sách xuất bản 8 năm trước (Trần VT 1997, Chương 2), ở đây chỉ tóm tăt (và bổ sung) một vài điểm sau: Thứ nhất, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh (giữa các thành phần kinh tế) và hội nhập tích cực vào thị truờng thế giới để tư bản và các yếu tố sản xuất khác được sử dụng một cách có hiệu quả nhất. Thứ hai, có kế hoạch dài hạn trong việc xây dựng nguồn nhân lực đồng thời tạo cơ chế để nhân tài được xử dụng đúng chỗ. Thứ ba, tạo môi trường để khoa học và công nghệ ứng dụng rộng rãi tại Việt Nam, tri thức về công

nghệ và quản lý, kinh doanh được lan rộng ra khắp nước. Thứ tư, bộ máy hành chánh cần phải được cải cách nhanh (quy rõ trách nhiệm và quyền hạn các cấp để có thể phân cấp quản lý) và tạo cơ chế để người tài giỏi và có phẩm chất đạo đức ra giữ những chức vụ quản lý nhà nước. Bộ máy hành chánh như hiện nay dễ làm tăng phí tổn hành chánh của xí nghiệp và làm nãy sinh những hiện tượng tiêu cực. Trong trạng thái đó, xí nghiệp sẽ tìm cách tạo quan hệ không chính đáng với quan chức quản lý mà kinh tế học phát triển gọi là mưu tìm đặc lợi (rent-seeking) thay vì nỗ lực tìm kiếm thị trường, cải tiến công nghệ để giảm giá thành và tăng phẩm chất hàng sản xuất. Một nước phát triển nhanh và có hiệu suất khi các xí nghiệp hăng hái, nỗ lực trong việc mưu tìm lợi nhuận (prrofit-seeking) chân chính hơn là mưu tìm đặc lợi (Xem thêm Chương 16).

Vài lời kết

  Việc tính toán lại thống kê kinh tế Việt Nam từ 1955 đã cho phép ta với tầm nhìn dài hạn so sánh được cơ cấu và nhịp độ phát triển của kinh tế nước ta với các nước chung quanh.

  Trong nửa sau thế kỷ XX, dòng thác công nghiệp đã lan nhanh cả bề sâu và bề rộng tại vùng châu Á Thái bình dương và các nước trong vùng nầy nối đuôi nhau trong quá trình phát triển. Vì điều kiện lịch sử, Việt Nám đã mất phần lớn của nửa sau thế kỷ nầy về phương diện phát triển kinh tế. Công cuộc đổi mới đã đưa Việt Nam hội nhập vào làn sóng công nghiệp tại khu vực nầy từ đầu thập niên 1990 nhưng vào đầu thế kỷ nầy, giữa Việt Nam và các nước lân cận còn một khoảng cách lớn về trình độ phát triển mà đại biểu là khoảng cách độ 20 năm giữa Việt Nam và Thái Lan.

  Trong vài thập niên tới, với lợi thế về nguồn nhân lực và lợi thế của nước đi sau trong một vùng mà công nghệ, tư bản và tri thức kinh doanh đương di chuyển nhộn nhịp, Việt Nam hoàn toàn có khả năng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực. Tuy nhiên đó mới chỉ là tiềm năng và cơ hội. Điều kiện đủ là phải có quyết tâm vì mục tiêu thoát khỏi nguy cơ tụt hậu mà mạnh dạn đổi mới hơn nữa, đổi mới để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế và tích cực thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Đó là những yếu tố quan trọng để tư bản tích luỹ nhanh và kinh tế phát triển có hiệu suất, hai điều kiện tiên quyết để có tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững, tạo khả năng lâu dài đuổi kịp các nước chung quanh. Trong quá trình đó, tiêu điểm lớn nhất là công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá của Việt Nam trong những năm tới trực diện nhiều vấn đề mới và nhiều thách thức mới mà những chương sau sẽ mổ xẻ và đưa ra các chiến lược, biện pháp cần thiết.


[1] Kết quả nghiên cứu, tính toán các chỉ tiêu kinh tế của Việt Nam được in trong Trần Văn Thọ chủ biên (2000a).  
[2] Giai đoạn thứ ba lẽ ra bắt đầu từ năm 1997, năm xảy ra khung hoảng tiền tệ Á châu và cũng là năm tiếp theo ngay giai đoạn trước, nhưng do có sẵn thống kê từ năm 1995 nên giai đoạn nầy được phân tích theo như Biểu 1-1. Với mục đích phân tích ở đây, giai đoạn 3 bắt đầu năm 1995 hay năm 1997, kết quả cũng không thay đổi nhiều.
[3] Ở đây không có điều kiện đi sâu vào vấn đề phát triển kinh tế của các nước Đông Á từ cuối thập niên 1990. Các độc giả quan tâm vấn đề nầy có thể xem Stiglitz and Yusuf (2001) và các bản báo cáo hằng năm Asian Development Outlook (Asian Development Bank).
[4] Theo tự liệu của ECAFE, tiền thân của ESCAP (Uỷ ban của Liên Hiệp Quốc về kinh tế và xã hội châu Á Thái bình dương), vào năm 1954 thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam là 117 USD trong khi của Thái Lan vào năm 1952 là 108 USD (Inđônêxia là 88 USD). Trích dẫn theo JICA (1995), tr. 13.
[5] Cũng từ ý nghĩ nầy, tôi đã có dịp so sánh trình độ phát triển của Việt Nam với Trung Quốc trong một bài viết ngắn. Xem Trần Văn Thọ (1998b).
[6] Increamental Capital-Output Ratio: Hệ số chỉ số vốn tăng cần thiết để tăng một giá trị sản xuất nhất định.
[7] Trần Văn Thọ (2000b) bàn về sự liên quan giữa FDI với nguy cơ tụt hậu.

* Chương 1 trong quyển "Biến động kinh tế Đông á và con đường công nghiệp hoá Việt Nam" do Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2005. Chương nầy dùng bản viết của tác giả trước khi đưa cho nhà xuất bản nên về mặt câu chữ có một số chỗ khác với trong sách. Tuy nhiên nội dung không có gì khác. Đăng lại trên ERCT với sự đồng ý của tác giả.