Bản dự thảo Báo cáo chính trị tŕnh
Đại hội X của Đảng Cộng
sản VN chủ trương cho phép đảng viên
làm kinh tế tư nhân và không giới hạn quy
mô. Đây là một chủ trương đúng.
Tuy nhiên, vẫn c̣n một số người,
kể cả những nhà lư luận trong Đảng,
không đồng ư với chủ trương
đó v́ cho rằng đảng viên làm kinh tế
tư bản tư nhân là trái với nguyên
tắc giai cấp, kinh tế tư bản tư nhân
thuộc giai cấp bóc lột lao động c̣n
người cộng sản phải lấy
việc xóa bỏ chế độ bóc lột làm
lư tưởng đời ḿnh. Tôi thấy lập
luận này sai ở hai điểm cơ bản:
Một là, trong chế độ một đảng
như hiện nay, tư tưởng và hành động
đối xử phân biệt với một thành
phần của dân tộc là trái với đạo
lư và trái với lợi ích chung, nhất là thành
phần đó đang góp phần ngày càng quan
trọng vào việc làm cho kinh tế phát
triển. Hai là, cho rằng bản chất của
kinh tế tư bản tư nhân là bóc lột lao
động là không đúng với lư luận và
thực tiễn trong thời đại ngày nay.
Kinh tế tư bản tư nhân và
vấn đề đảng viên Đảng
Cộng sản VN

Giáo sư Trần Văn
Thọ
|
Trước hết, cần hiểu nội dung
của kinh tế tư bản tư nhân và vị
trí của nó trong nền kinh tế VN hiện nay.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần
kinh tế trong đó một hoặc nhiều cá nhân
sở hữu tư liệu sản xuất và có
thuê mướn lao động, khác với kinh
tế cá thể là những cá nhân có tư
liệu sản xuất nhưng không thuê mướn
lao động, chỉ sản xuất, kinh doanh
dựa trên lao động của chính ḿnh
hoặc của gia đ́nh ḿnh. Trong quá tŕnh đổi
mới, với Luật Đầu tư nước
ngoài và Luật Doanh nghiệp, kinh tế tư
bản tư nhân lớn mạnh và chiếm
tỷ trọng ngày càng lớn trong nền kinh
tế quốc dân. Vào những năm đầu
đổi mới, kinh tế tư bản tư nhân
hầu như chưa có ǵ nhưng đă chiếm
14% trong tổng sản phẩm trong nước
(GDP) vào năm 1995 và tăng lên 23% vào năm 2003.
Trong sản xuất công nghiệp, vị trí
của kinh tế tư bản tư nhân c̣n cao hơn:
32% năm 1995 và 49% năm 2003.
Trong thể chế một đảng lănh đạo,
việc không chấp nhận một thành phần
quan trọng của dân tộc vào trong tổ
chức của ḿnh, dù với lư do ǵ đi
nữa, cũng hoàn toàn không có sức thuyết
phục. Nếu là chế độ đa đảng,
một đảng nào đó có thể có một
cương lănh hoạt động không đại
diện hết lợi ích của mọi thành
phần. Trong trường hợp đó, mỗi người
dân có quyền chọn lựa những đảng
phù hợp với lợi ích của riêng ḿnh. Nhưng
trong chế độ một đảng, người
dân không thể có một chọn lựa nào khác
mà đảng đó lại đối xử phân
biệt với một thành phần nào đó là
bất công, là không hợp với đạo lư.
Ngoài ra, tại VN, sự lớn mạnh của
kinh tế tư bản tư nhân, sự đóng góp
ngày càng lớn của khu vực này vào việc
phát triển của nền kinh tế, là kết
quả của đổi mới. Nếu cho
rằng đó là thành phần không đáng để
đảng viên tham gia, thậm chí cho đó là thành
phần thuộc giai cấp khác mà lư tưởng
của người cộng sản là trước
sau cũng phải xóa bỏ giai cấp đó, th́
chẳng những mâu thuẫn với đường
lối đổi mới, xóa bỏ thành quả
của đổi mới mà nguy hiểm hơn, c̣n
làm mất ḷng tin của người dân trong nước
và cộng đồng quốc tế, đặc
biệt là những nhà đầu tư nước
ngoài.
Tư bản tư nhân ngày nay có phải
tất yếu là bóc lột lao động?
Những người chủ trương đảng
viên không được làm kinh tế tư
bản tư nhân lấy lư do rằng đó là thành
phần kinh tế bóc lột lao động
bằng giá trị thặng dư mà lư tưởng
của Đảng Cộng sản là xóa bỏ bóc
lột. Theo tôi, dù phân tích từ góc độ nào
cũng phải đi đến một kết
luận tối hậu là làm sao để người
lao động ngày càng sung sướng, ngày càng có
một mức sống cao hơn. Mọi tư tưởng
và lư luận không đạt được
mục đích này tự nó sẽ mâu thuẫn và
không phù hợp với sự phát triển của
xă hội.
Giá trị thặng dư (GTTD) theo chủ nghĩa
Marx là tổng sản phẩm xă hội trừ
đi khấu hao tư bản và tiền lương
trả cho lao động. GTTD này bao gồm
tiền lăi ngân hàng, tiền vốn chia cho cổ
đông, và lợi nhuận của xí nghiệp.
Trong thể chế xă hội chủ nghĩa
(XHCN), các tư liệu sản xuất do nhà nước
và tập thể nắm giữ nên tất cả
GTTD thuộc về nhà nước, thuộc về
tập thể, c̣n thể chế tư bản
chủ nghĩa (TBCN) hoặc thể chế của
một nền kinh tế nhiều thành phần,
GTTD gồm ít nhất 3 phần: lợi nhuận
sau khi trừ thuế của xí nghiệp tư nhân
và xí nghiệp quốc doanh, thu nhập của nhà
nước từ thuế lợi nhuận doanh
nghiệp, và tiền lăi ngân hàng cộng với
cổ tức (phần thứ ba này có nhiều
chủ sở hữu, trong đó có cả người
lao động v́ họ có tiền để dành
ở ngân hàng và có mua cổ phiếu của xí
nghiệp). Như vậy, cả thể chế XHCN
và TBCN đều có GTTD, chỉ khác là nhà nước
(và tập thể) trực tiếp nắm hết
rồi phân phối lại hay là xí nghiệp tư
nhân và cá nhân nắm phần lớn. Cần nói
thêm rằng dù trong thể chế TBCN, GTTD vẫn
chịu sự điều tiết của nhà nước
qua chính sách tài chánh.
Đứng trên lập trường của người
lao động, v́ quyền lợi của người
lao động, ta thấy cần đặt ra các
vấn đề sau:
(1) Làm sao để ngày càng tăng hay ít
nhất là không giảm tỷ lệ của
phần được chia cho lao động trong
thu nhập quốc dân. Nói khác đi là làm sao
để ngày càng giảm hoặc ít nhất là
giữ nguyên tỷ lệ của GTTD trong tổng
thu nhập quốc dân.
(2) Làm sao để quy mô của thu nhập
quốc dân ngày càng tăng. Giữa trường
hợp người lao động được
chia phần lớn với cái bánh lúc nào cũng
nhỏ với trường hợp có ai đó
với tài trí và tinh thần mạo hiểm,
sẵn sàng đầu tư ứng dụng công
nghệ, khám phá thị trường làm cho cái bánh
ngày càng lớn th́ dù tỷ lệ phần chia
của người lao động có thấp hơn,
người lao động sẽ chọn trường
hợp thứ hai, v́ giá trị tuyệt đối
của phần họ được chia lớn hơn
nhiều so với trường hợp thứ
nhất.
Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy:
Thứ nhất, kinh tế Nhật phát triển
nhanh, hầu như liên tục trong thời gian dài
như mọi người đều biết.
Từ năm 1900 đến năm 1973, thu nhập
quốc dân b́nh quân đầu người trên
thực chất (sau khi trừ ảnh hưởng
của giá cả) đă tăng đến 10
lần.
Thứ hai, trong giai đoạn đầu
của quá tŕnh phát triển, phần chia cho người
lao động có khuynh hướng giảm. Về
từng người lao động cá biệt có
thể có nhiều trường hợp bị bóc
lột GTTD, với ư nghĩa là năng suất lao
động của họ cao hơn tiền lương.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, những người
lao động đó bị bóc lột là để
cứu những người lao động khác có
công ăn việc làm trong một nền kinh
tế c̣n dư thừa lao động (hoặc nói
khác đi là để chia công việc, chia
tiền lương giữa những người
lao động), và điều này lại tự
nhiên v́ do quy luật thị trường quyết
định. Một điểm cần lưu ư
nữa là đối với những người
lao động đó, được “bị bóc
lột” như vậy vẫn sung sướng hơn
sống trong cảnh cơ cực ở nông thôn.
Nếu cho
rằng kinh tế tư bản tư nhân là
thành phần không đáng để đảng
viên tham gia... th́ chẳng những mâu
thuẫn với đường lối đổi
mới, xóa bỏ thành quả của đổi
mới mà nguy hiểm hơn, c̣n làm mất
ḷng tin của người dân trong nước
và cộng đồng quốc tế...
|
Thứ ba, sau một quá tŕnh phát triển,
phần chia cho người lao động có khuynh
hướng tăng. Không những cái bánh của
Nhật ngày càng to ra mà tỷ lệ của người
lao động được hưởng cũng
lớn hơn. Chẳng hạn, từ năm 1965
đến 1989, tỷ lệ của tiền lương
trả cho lao động trong tổng thu nhập
quốc dân đă tăng từ 56% đến 68%.
Ở đây chỉ kể tiền lương
chứ thực ra thu nhập của người
lao động c̣n bao gồm thu nhập từ tài
sản cá nhân như bất động sản,
tiền gửi tiết kiệm, cổ phiếu...
Thứ tư, tỷ lệ thu nhập ṛng
của doanh nghiệp pháp nhân trong tổng thu
nhập quốc dân quá nhỏ, nhất là sau khi
trừ thuế (chỉ có 5% vào năm 1965).
Nếu kể cả phần lớn của cổ
tức và một phần của tiền lăi ngân hàng
th́ tỷ lệ này cũng không lớn. Ngoài ra,
những phần này cũng có thể gọi là thù
lao chính đáng cho những nhà doanh nghiệp có
khả năng khám phá công nghệ, t́m kiếm
thị trường, cải tiến kinh doanh,
sản xuất. Thực tế cho thấy nếu
không có tinh thần doanh nghiệp này, kinh tế không
phát triển và cuộc sống của người
lao động cũng không được cải
thiện. Trong thời đại ngày nay, các
yếu tố sản xuất truyền thống như
tư bản, đất đai... không quan
trọng mà các yếu tố mới như tri
thức, trí tuệ, năng lực tổ chức,
quản lư mới là động lực của
sự tiến bộ. Ở nước ta, gần
đây ai cũng nhấn mạnh sự quan
trọng của kinh tế tri thức nhưng
chẳng lẽ lại phủ nhận tri thức
của nhà doanh nghiệp?
Ngoài những số liệu hùng hồn nói trên,
kinh nghiệm Nhật Bản c̣n cho thấy
nhiều câu chuyện lập nghiệp cảm
động, nhiều câu chuyện thành công
rất ngoạn mục của những công ty mà
ngày nay người Nhật rất tự hào như
Toyota, Honda, Sony, Canon... Giữa cảnh hoang tàn,
đổ nát ngay sau thế chiến thứ hai,
Masaru Ibuka, người đồng sáng lập Sony,
đă nói một câu rất cảm động
trong bài diễn văn kỷ niệm ngày thành
lập công ty năm 1946: "Phải ra sức dùng
công nghệ, kỹ thuật góp phần vào sự
phục hưng của tổ quốc chúng ta!".
Ngày nay, được vào làm việc ở
những công ty Sony, Honda, Toyota... là giấc mơ
của hàng chục vạn sinh viên tốt
nghiệp đại học. Họ muốn vào
đấy để bị bóc lột chăng?
Đảng Cộng sản VN bây giờ đă
đánh giá đúng mức vai tṛ của kinh
tế tư bản tư nhân và cho phép đảng
viên tham gia thành phần này. Đây là hướng
đi đúng dù hơi trễ.
T.V.T