Olympic và sức mạnh quốc gia
 

Trần Văn Thọ ( Exryu Japan )
 

 

Bài này đã đăng trên VNexpress (mục Góc Nhìn, 12/8/2021). Sau đó tôi có bổ sung vài ý. Bản này đầy đủ hơn. Tác giả cám ơn chị Phạm Chi Lan (Hà Nội) và anh Ngô Diệu Kế (Chiba) đã góp ý kiến vào bản thảo.

 

Cuối cùng, Tokyo Olympic đã được thực hiện, và tôi tự hỏi: Việt Nam ta bao giờ có thể tổ chức được Thế vận hội?

Tokyo Olympic bế mạc hôm 8/8 ghi dấu vào lịch sử. Đây là lần đầu tiên sự kiện không có người xem ở các trường đấu, hội trường khai mạc, bế mạc và không có giao lưu giữa cầu thủ nước ngoài với người dân nước chủ nhà.

Trong tình hình dịch bệnh lan rộng thì hoặc là không tổ chức hoặc phải tổ chức trong điều kiện đặc biệt như thế. Đã có 11.000 tuyển thủ của 205 nước và vùng lãnh thổ tham gia. Tuy có một số tuyển thủ nước ngoài sau khi đến Nhật bị phát hiện nhiễm Covid 19 và phải bỏ cuộc, nhưng tất cả các trận đấu đã diễn như kế hoạch.

Tôi xem hết lễ khai mạc, đặc biệt chú ý mục tuyển thủ các nước lần lượt tiến vào hội trường. Sắc màu trang phục, cách biểu lộ tinh thần đồng đội, nét mặt hân hoan được tham gia trong sự kiện quốc tế nhiều ý nghĩa của mỗi nước mỗi khác. Nhưng điểm tôi chú ý nhất là số tuyển thủ của các nước. Có nước hùng hậu tới trên 500 người, có nước chỉ vài vận động viên. Dĩ nhiên trên thế giới có nước nhỏ nước lớn và điều đó phản ánh trong sự kiện quốc tế này.

Nhưng nói như vậy chưa đủ. Vì có nhiều nước nhỏ về quy mô kinh tế nhưng số tuyển thủ khá đông. Có lẽ có ba yếu tố quyết định điều này: Quy mô dân số, trình độ phát triển phản ánh trên thu nhập đầu người và những yếu tố khác như lịch sử, địa lý và nhất là chính sách, chiến lược thể thao của mỗi quốc gia. Yếu tố thứ ba giải thích số tuyển thủ tương đối đông của nhiều nước Phi châu, châu Mỹ Latin và Đông Âu dù dân số rất ít và trình độ phát triển chưa cao.. Nhìn chung, số lượng tuyển thủ đông đảo phản ảnh khả năng tham gia thi đấu ở rất nhiều chủng loại, hạng mục thể thao

Tôi thấy số tuyển thủ tham gia gần như tương ứng với thành tích đạt được. Những nước có tuyển thủ đông nhất là Mỹ (657), Nhật (600), Australia (468), Trung Quốc (420) đều trong nhóm sáu nước đoạt nhiều nhất số lượng huy chương vàng cũng như tổng số ba loại vàng, bạc và đồng. Các nước khác thuộc top 10, gồm Anh, Nga, Hà Lan, Pháp, Đức và Italy cũng có số tuyển thủ đông đảo. Chỉ 10 nước này đã đoạt tất cả 203 - chiếm 60% - tổng số huy chương vàng.

Tôi đặt ra vấn đề này và đưa ra ba yếu tố ở trên cũng là để suy nghĩ về trường hợp Việt Nam chúng ta. Kỳ này, Việt Nam chỉ có 19 tuyển thủ tham gia và rất tiếc không đoạt huy chương nào. Nhìn từ hai yếu tố, dân số và trình độ phát triển - đã đạt mức trung bình, cũng như vị trí ngày càng cao trên các diễn đàn chính trị kinh tế khu vực và thế giới, vị trí của Việt Nam ở Olympic thật quá nhỏ. Việt Nam lại ở tương đối gần Tokyo. Nhiều nước xa xôi tận Phi châu như Uganda hay Trung Nam Mỹ như Guatemala có số dân chỉ bằng nửa hay 1/5 của Việt Nam và thu nhập đầu người ít hơn nhiều, nhưng số tuyển thủ tham gia xấp xỉ bằng Việt Nam.

Số tuyển thủ quá ít của Việt Nam có thể giải thích bằng yếu tố thứ ba nói trên. Chúng ta mới có hòa bình hơn 30 năm nay và phải ưu tiên nguồn lực cho các mục tiêu khác. Nhưng cũng khách quan nhìn lại thì thấy Việt Nam chưa cố gắng đúng mức để phát hiện tài năng trẻ, để đầu tư nhiều hơn cho lĩnh vực thể thao. Trong tương lai, nếu kinh tế phát triển mạnh mẽ và có chính sách chấn hưng thể thao, tăng thể lực người dân, tôi hy vọng vị trí của Việt Nam ở các Thế vận hội tương lai sẽ khác. Tăng thể lực của người dân qua các chương trình học lý thuyết và thực hành liên quan thể dục, thể thao ở học đường từ bậc tiểu học trở lên là cần thiết. Các kỹ năng như bơi lội có được từ nhỏ còn để bảo vệ mình và cứu người, tránh những tai nạn thương tâm ở sông, biển thỉnh thaorng thấy ở Việt Nam. Ở đại học khuyến khích sinh viên tự lập ra các câu lac bộ thể thao để tiếp tục duy trì, cải thiện kỹ năng và làm phong phú các sinh hoạt của mỗi đại học. Thông qua các sinh hoạt thể dục thể thao ở học đường, nhà nước có thể phát hiện các tài năng đặc biệt và tổ chức huấn luyện ở tầm cao hơn. Sau nhiều năm với những nỗ lực này, chắc chắn Việt Nam sẽ có một vị trí ngày càng lớn ở Olympic.

Nhìn lại lịch sử Olympic trong khoảng 60 năm gần đây, riêng tại Á châu ta thấy những nước được tín nhiệm đăng cai tổ chức sự kiện quốc tế này đều đã kinh qua một giai đoạn phát triển mạnh mẽ, báo hiệu thời đại mới sắp tới. Trước hết là Nhật Bản với Tokyo Olympic năm 1964. Lúc đó, Nhật đang ở vào giữa giai đoạn phát triển thần kỳ - trung bình tăng trưởng 10% mỗi năm kéo dài gần 20 năm, từ 1955 đến 1973.

Tiếp theo Nhật, 24 năm sau là Seoul Olympic 1988. Hàn Quốc trở thành nước công nghiệp mới năm 1979 và tiếp tục phát triển với tốc độ cao để 9 năm sau tổ chức sự kiện quốc tế quan trọng này. Mùa hè năm 1986, lần đầu tiên thăm Hàn Quốc, tôi chứng kiến không khí tưng bừng, hồ hởi và tự tin của người dân đang chuẩn bị cho Seoul Olympic. Hai mươi năm sau là Beijing Olympic 2008. Trung Quốc đang ở vào giữa giai đoạn phát triển mạnh mẽ, hai năm sau đó vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới.

Được đăng cai tổ chức Olympic có thể không phải là mục tiêu của quốc gia nhưng sự kiện quan trọng đó nói lên một trong những thành quả của phát triển. Để có thể tổ chức thành công Thế vận hội hiện đại với sự tham gia của cả vạn tuyển thủ đến từ trên dưới 200 nước và vùng lãnh thổ phải có năng lực tài chính và kỹ thuật, công nghệ, quản lý để xây dựng cơ sở hạ tầng phức tạp, đa dạng, bảo đảm an toàn các đấu trường cho hàng chục chủng loại thể thao. Yếu tố quan trọng không kém là khả năng bảo đảm an toàn cho tuyển thủ và du khách trong hơn hai tuần của Olympic, là sự hiếu khách thể hiện ở văn hóa của thị dân, ở tổ chức, sinh hoạt kinh tế, xã hội của thành phố. Olympic không chỉ là sự kiện thể thao lớn của nhân loại mà còn là một sự kiện kinh tế, chính trị.

Việt Nam thì sao? Nếu mục tiêu trở thành nước tiên tiến vào năm 2045 thì khoảng cuối thập niên 2030, tức gần 20 năm nữa, Việt Nam phải đủ năng lực để tổ chức sự kiện quốc tế lớn này dù trên thực tế Hà Nội, TP HCM hay Đà Nẵng, Hải Phòng có giành được thắng lợi trong cuộc cạnh tranh đăng cai tổ chức Olympic hay không.

Hiện các Olympic đến năm 2032 đã được quyết định. Paris 2024, Los Angeles 2028, Brisbane 2032 và Istanbul đang nhắm Olympic 2036. Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, Philippines và Ấn Độ có thể sẽ tranh nhau đăng cai tổ chức Olympic 2040 hay 2044?

Hơn 10 năm trước Việt Nam đã đạt mức phát triển trung bình thấp. Nếu việc tiêm chủng vac-xin được tiến hành nhanh,sớm phổ cập đến đại đa số dân chúng và nạn dịch trên căn bản được giải quyết thì kinh tế sẽ trở lại quỹ đạo của những năm trước 2020 và Việt Nam sẽ đạt mức phát triển trung bình cao vào giữa hoặc nửa sau thập niên nầy. Nhưng từ phát triển trung bình cao tiến lên hàng một nước tiên tiến thì không dễ, đòi hỏi những cải cách sâu rộng, mạnh mẽ về thị trường vốn, thị trường đất đai, về đào tạo nguồn nhân lực, về chấn hưng khoa học công nghệ, về hành chánh liên quan tiền lương, liên quan chế độ tuyển chọn quan chức các cấp, v.v.. Những cải cách này là tiền đề để các nguồn lực được phân bổ có hiệu suất, để khoa học, công nghệ được ứng dụng rộng rãi, để chất lượng nguồn nhân lực thích ứng với những thay đổi của khoa học, công nghê, và từ đó năng suất lao động tăng vượt bậc so với các giai đoạn phát triển trước. Đây cũng là những tiền đề để có thể tổ chức Olympic vào khoảng năm 2040. Song song với phát triển kinh tế, qua những nỗ lực cải cách về thể dục thể thao nói trên, Việt Nam sẽ dần dần tặng số lượng huy chương đạt được ở các Olympic. Đây cũng là tiền đề để thế giới tín nhiệm giao cho tổ chức Olympic trong tương lai./.

T.V.T.

Tokyo, 12/8/2021