 |
99%
dân số người Nhật biết
đọc biết viết
|
Điều
21 trong Hiến pháp của Nhật [1] đảm
bảo hoàn toàn không có bất cứ một
sự kiểm duyệt nào đối với
quyền tự do biểu hiện của
mỗi người dân. V́ vậy, ở
Nhật không có bất kỳ tổ chức
hoặc cá nhân nào có quyền bắt bạn
cắt xén sáng tạo của bạn, hoặc
ngăn cấm bạn triển lăm hoặc in
ấn tác phẩm của ḿnh v́ những ǵ
bạn viết hoặc vẽ ra trong tác
phẩm của bạn. Nếu có tranh chấp
liên quan xảy ra, th́ cả hai phía: phía
muốn kiểm duyệt và phía tác giả
hoặc nhà xuất bản đều b́nh
đẳng trước pháp luật, tức là
đều có quyền mời luật sư và
giải quyết tranh chấp tại ṭa án (Như
vụ con gái một chính khách kiện một
nhà xuất bản đă đăng vụ ly
dị của cô ta lên báo gần đây). Tiêu
chuẩn duy nhất để một bức
tranh được treo tại triển lăm
tập thể của một hội mỹ
thuật nào đó, tại một địa
điểm công cộng nào đó như
bảo tàng mỹ thuật, gallery v.v... là
nghệ thuật thuần túy, và chỉ có
nghệ thuật mà thôi. Tranh đẹp th́
được treo. Tranh xấu (hoặc không
đẹp bằng) th́ bị loại. Tất
nhiên đẹp hay xấu c̣n tùy thuộc vào
thẩm mỹ của hội đồng
nghệ thuật. V́ thế để giảm
tối thiểu sự thiên vị của
một vài “ủy viên hội đồng
nghệ thuật”, các hội mỹ thuật
ở Nhật thường mời tất
cả các hội viên (vài trăm người)
cùng họp để chọn tranh, bằng cách
dơ tay biểu quyết. Tranh nào được
nhiều hội viên chọn th́ được
treo.
Nhật
bản là nước có tỷ lệ người
biết đọc biết viết cao nhất
thế giới, tới 99% dân số. Người
Nhật kể cả tầng lớp lao động
ít học cũng hành xử rất có văn
hoá. Mọi người nói năng rất
lịch sự. Không thấy ai nói tục
chửi bậy ở nơi công cộng. Trên
các phương tiện giao thông công cộng,
ngoài phố, rất khó phân biệt người
giàu người nghèo, v́ ai nấy đều
ăn mặc đẹp đẽ, lịch
sự như nhau, tuy là không ai giống ai.
Những người làm cho các công ty thường
mặc “com-lê” đeo “cà-vạt”.
Giới trẻ ăn mặc hiện đại,
lố lăng hơn, nhưng không hề có ai
dám tỏ ư phê b́nh, chê bai, chứ chưa nói
là cấm đoán, dù là với bất cứ
lư do ǵ kể cả “thuần phong mỹ
tục”. Ai cũng hiểu đó là quyền
tự do cá nhân được hiến pháp tôn
trọng tuyệt đối. Một số ít
trường không cho phép học sinh trung
học nhuộm tóc. Nhiều trường khác
không hề ngăn cấm.
Có lần một thày giáo bị bố
mẹ một học sinh kiện v́ đă
bắt con của họ gội sạch mái tóc
nhuộm, v́ như vậy là vi phạm tự
do thân thể của học sinh. Trừ
một số người “vô gia cư”
(homeless) sống thường trực tại công
viên Ueno ở trung tâm
Tokyo
, ngoài phố hầu như không gặp người
rách rưới hoặc người ăn xin.
Trong quan hệ giao tiếp, người
Nhật thường rất nhún nhường,
ít khi nói về ḿnh, về gia đ́nh con cái
ḿnh. Đặc biệt họ không bao giờ
khoe khoang, nhất là khoe giàu, khoe giỏi hơn
người khác, v́ họ tránh hết
sức ḷng ghen tị. Họ đánh giá cao t́nh
hữu nghị lâu dài. Sau khi họ đă tin
tưởng bạn, họ giúp đỡ
bạn vô điều kiện.
Nói
chung học sinh Nhật rất tôn trọng
thầy cô giáo và các học sinh lớp trên.
Hệ thống tiểu học của Nhật
khá nhẹ nhàng, học như chơi. Lên
trung học th́ bắt đầu căng hơn
v́ phải học để thi vào các trường
cao học (cấp 3) tốt th́ mới có cơ
may thi được vào các trường
đại học tốt. Tốt nghiệp các
trường đại học danh tiếng
(như ĐHTH
Tokyo
, ĐHTH Waseda, v.v.) th́ khả năng t́m
được việc làm ở các công ty
tốt sẽ lớn hơn. V́ thế học
sinh Nhật cũng “học thêm” ở các
trung tâm luyện thi bên ngoài. Nhưng những
thầy dạy ở các trung tâm “học thêm”
đó tuyệt đối không được
dạy tại các trường học chính
quy. Hoàn toàn không có việc một thầy (cô)
giáo sáng dạy chính khóa, chiều lại
dạy “thêm” cho chính học sinh lớp ḿnh.
Giáo giới được xă hội rất
tôn trọng, và được trả lương
khá cao, tăng lương định kỳ,
và được tiền thưởng hàng năm
bằng 5 tháng lương. Lương
một giáo viên độc thân 23 – 24
tuổi mới vào nghề là khoảng 3
triệu yen (27 ngàn USD) mỗi năm. Một
giáo viên 40 tuổi có một vợ và 2 con hưởng
lương khoảng 5.5 triệu yen (50 ngàn
USD) mỗi năm, tương đương
lương phó giáo sư đại học
(không quá 35 tuổi) khoảng 5 triệu yên
(45 ngàn USD) mỗi năm [2].
Sách
vở, thiết bị phục vụ cho
việc học ở Nhật rất đẹp,
hiện đại và đầy đủ.
Lớp học thường được
trang bị các phương tiện nghe nh́n như
TV, video, v.v. Đặc biệt các môn
ngoại khóa rất đa dạng. Tất
cả học sinh từ trung học trở lên
đều tham gia hoạt động ngoại
khóa tại các câu lạc bộ khác nhau (âm
nhạc, hội họa, thể thao: bóng đá,
bóng chuyền, bóng rổ, bóng chầy, tennis,
badminton, bơi, judo, karate, aikido, kiếm
thuật, bắn cung, v.v.). Tất cả đều
được trang bị rất chuyên
nghiệp và luyện tập hàng ngày (Người
Nhật đă làm ǵ th́ thích làm rất
“chuyên nghiệp”, ít nhất là về trang
bị dụng cụ.).
 |
Hệ
thống học tập của
Nhật khá nhẹ nhàng, học như
chơi...
|
Khá
nhiều trẻ con Nhật được
bố mẹ cho học nhạc, tuy không
phải tất cả theo được đến
cùng. Nhiều gia đ́nh có đàn piano đứng
(upright piano), thậm chí đàn grand piano (đại
dương cầm). Hăng Yamaha có một
mạng lưới dạy âm nhạc trên toàn
nước Nhật. Các cô giáo đều
tốt nghiệp đại học âm
nhạc, tài nghệ cao, tŕnh độ sư
phạm rất giỏi, và không bao giờ quát
mắng học tṛ. Một cô giáo piano, khi
giảng cho học sinh phải chơi không
rung cổ tay, đă để một cục
tẩy lên cổ tay ḿnh rồi chạy ngón mà
cục tẩy vẫn nằm trên cổ tay cô,
không rơi xuống đất (!). Học sinh
học piano đến giờ lên lớp bao
giờ cũng được chơi đại
dương cầm Yamaha. Nhiều người
khi vào đại học đă học 10 -12 năm
piano, sau đó lại tiếp tục học
thêm, tuy không trở thành nhạc sĩ chuyên
nghiệp. V́ thế tŕnh độ âm
nhạc nghiệp dư của người
Nhật khá cao. Các tác phẩm kinh điển
của các nhà soạn nhạc cổ điển
như Bach, Mozart, Beethoven, Mendelssohn, Chopin, Listz,
các nhạc sĩ nghiệp dư này đều
chơi như “cháo” cả. Ở
Tokyo
có nhiều pḥng hoà nhạc cho các nhạc sĩ
nghiệp dư biểu diễn không mất
tiền, hoặc phải trả rất ít
tiền, nhưng nhạc cụ bao giờ cũng
là hạng đầu bảng như Steinway
hoặc Yamaha concert grand piano. Tất nhiên, không
phải xin phép bất cứ một cơ quan
văn hoá nào để tŕnh diễn ca
nhạc. Mọi việc đều do ca sĩ,
nhạc công và chủ pḥng hoà nhạc
quyết định.
Các
viện nghiên cứu quốc gia lớn
của Nhật thường giầu có hơn
các trường đại học. Ví dụ
là viện RIKEN đă nói ở trên. Đây là
một viện nghiên cứu hàng đầu trên
thế giới. Viện này có khoảng
5,500 người làm việc, trong đó
chỉ có khoảng 700 nhân viên hành chính
phục vụ các nhà nghiên cứu. Viện có
5 cơ sở đóng tại Wako (ngoại ô
Tokyo
), Tsukuba, Harima,
Yokohama
, và
Kobe
. Kinh phí nghiên cứu của viện hàng năm,
chủ yếu do Nhà nước cấp, vào
khoảng 80 – 85 tỷ yên (ngót ngét 800
triệu USD), tức là trung b́nh chi phí cho
mỗi đầu người làm việc
tại RIKEN là khoảng 150 ngàn USD mỗi năm
[3].
 |
Máy
gia tốc (Ring Cyclotron K540) của
Viện RIKEN
|
Khối
cán bộ hành chính của RIKEN làm việc
đúng như “các đầy tớ của
các nhà khoa học”. Ở đây không hề
có chuyện pḥng “Tổ chức cán
bộ” hay vụ “Hợp tác quốc tế “tác
oai” với các cán bộ nghiên cứu. Các
nữ thư kư đều hiểu rất rơ
vị trí và chức năng của ḿnh.
Một số người trong số họ cũng
đă từng tu nghiệp ở Anh, Hoa Kỳ,
nói tiếng Anh như người Anh người
Mỹ. Họ luôn luôn niềm nở, rất
lịch sự, khiêm tốn, và rất thành
thạo trong công việc của ḿnh. Mỗi
lần tôi đi công tác nước ngoài
(dự hội nghị quốc tế, hợp
tác nghiên cứu), bất kể đó là Hoa
kỳ, châu Âu, Trung quốc, hay Việt Nam
v.v..., tôi chỉ phải làm hai động tác.
Đầu tiên là thông báo cho giám đốc
của laboratory của tôi. Sau khi giám đốc
đồng ư (thường là bằng
miệng), tôi phải điền vào một
trang A4 in sẵn hành tŕnh, thời gian công tác
của tôi, kèm theo một dự báo giá vé máy
bay của hăng du lịch. Tất cả
mọi việc c̣n lại là công việc
của cô thư kư và bộ phận tài chính
của viện. Họ sẽ tính tiền công
tác phí chi cho tôi (gồm chi phí ăn, ở,
đi lại) cộng với tiền vé máy
bay. Sau đó toàn bộ số tiền đó
sẽ được viện tự động
chuyển tới tài khoản cá nhân của tôi
tại ngân hàng, trước khi tôi đi công
tác. Sau khi đi công tác về, nếu có
những khoản chi tiêu khác liên quan tới công
việc, viện sẽ thanh toán nốt theo biên
lai. Trong 9 năm trời làm việc ở RIKEN
tôi chưa bao giờ thấy họ chậm
trễ trong việc chi trả đó. RIKEN quan
niệm rằng việc một cán bộ khoa
học của RIKEN được mời
dự hội nghị quốc tế, hoặc
hợp tác quốc tế, là một cơ
hội để phát triển khoa học nói
chung, đồng thời đem lại lợi
ích, danh giá cho RIKEN nói riêng trong cộng đồng
quốc tế. Quà cáp biếu xén sau khi đi
công tác về là điều “bất
ngờ”, không chờ đợi, và không
phải thông lệ ở đây, ngoại
trừ đó là ư thích của cá nhân người
đi công tác. Và cũng không phải v́
thế mà người đó được
đối xử tốt hơn hoặc
tồi hơn so với người khác.
Một
xă hội cho dù có văn minh đến đâu
cũng có cả mặt tốt lẫn mặt
xấu. Bài viết này chỉ liệt kê
một số mặt tốt của xă hội
Nhật bản.
Một
anh bạn Việt
Nam
mới sang Nhật cùng vợ và con trai
học lớp 1. Tôi hỏi cháu: “Cháu
thấy trường Nhật khác với trường
Việt
Nam
thế nào?” Cháu trả lời: “Ở trường
Nhật cháu cảm thấy được nói
năng tự do thoải mái.” Tôi nhớ
lại câu chuyện không lấy ǵ làm vui
của chính con trai ḿnh. Cháu nói với tôi là
cháu đă nói dối lần đầu tiên
khi cháu học lớp 1 ở Hà Nội. Hôm
đó cô giáo quát: “Ai quên mang lọ mực
để tay lên bàn”. Các bạn để
tay lên bàn đều lănh một vụt thước
kẻ của cô vào tay rất đau. Con tôi cũng
quên mực, nhưng không muốn ăn
vụt, nên cháu đă nói dối: “Thưa cô,
sáng nay lúc em chuẩn bị lọ mực
đi học, mẹ em đă đánh đổ
mất!”. Cháu được cô tha. Dạy
dỗ dựa trên sự sợ hăi không
cảm hóa được con người mà
chỉ làm con người trở nên dối
trá, thủ đoạn.
Không
thể xây dựng một xă hội tự do,
văn minh, hạnh phúc dựa trên sự
sợ hăi của người dân. Có lẽ người
Nhật hiểu rất rơ điều đó
khi xây dựng xă hội của họ.
Tokyo
,
8.2004
NGUYỄN
Đ̀NH ĐĂNG
Trích
dẫn:
[1]
Xem “The Consitution of Japan” tại http://www.shugiin.go.jp/itdb_english.nsf/html/kenpou/english/constitution.htm
[2]
Theo Japanese Education System – The Teaching Profession
tại http://members.tripod.com/h_javora/jed4.htm
[3]
Theo RIKEN: Personel/Budget tại http://www.riken.jp/engn/r-world/riken/personnel/
|