|
Tây
Ninh Quê Tôi
Việt Hải
(*)
Tây Ninh là quê hương tôi v́ tôi ra đời
tại đó, dù không sống tại đó lâu,
nhưng những năm tháng về nơi này nghĩ
hè cũng đủ cho tôi cái t́nh thân ái của
những năm tháng thiếu thời. Gần 3
thập niên xa quê hương ngoài ư muốn, tâm
tư tôi vẫn không nguôi ngoai nh́n về cố
quốc trong nhung nhớ, mặc dù quê hương
vẫn c̣n ch́m đắm trong sự tụt
hậu so với các lân bang. Người dân
chịu nhiều thiệt tḥi nhất trong lịch
sử của quê hương. Để nhẹ nhàng
cho bài viết tôi không đi sâu về sự
tụt hậu này, mà lư do ly hương của
đa số người Việt tại hải
ngoại đă nói lên đủ rồi. Do đó
khi t́m hiểu về vùng đất nào đó người
ta thường bàn về các yếu tố như
lịch sử, địa dư, phong cảnh, di tích
và thức ăn hay thổ sản tiêu biểu.
Trong ư niệm như vậy cho bài viết
ngắn này tôi xin phác họa những nét đại
cương về Tây Ninh hay về quê hương
tôi như trong phần sau.
Địa Dư:
Về địa lư Tây Ninh cách Sài G̣n 99 km về
hướng bắc, chu vi dài 214 Km. Phía bắc Tây
Ninh tiếp giáp với tỉnh Kompong Cham của
Cao Miên, phía nam giáp tỉnh Hậu Nghiă, phía đông
giáp tỉnh B́nh Dương và phía tây giáp 2
tỉnh Prey Veng và Svay Rieng của Cao Miên. Do đó
khi nh́n vào bản đồ địa lư th́ Tây
Ninh có biên giới chia chung với xứ láng
giềng Cao Miên khá nhiều. Về diện tích th́
Tây Ninh choáng khoảng 3850 km vuông. Địa
thế Tây Ninh quan trọng là v́ nằm ngay trên
trục giao thông nối liền Sài G̣n sang Miên. Tây
Ninh nằm trên địa thế khá cao là 15 mét
trên độ cao của mặt biển. Về khí
hậu th́ Tây Ninh rất nóng, ẩm ướt vào
mùa nóng bức, mùa mưa từ tháng 5 đến
tháng 11.
Lịch Sử:
Điểm qua về lịch sử th́ Tây Ninh là
vùng đất của Thủy Chân Lạp, có tên
là Romdum Ray, tức Chuồng Voi (Pare aux éléphants) v́
nơi đây chỉ có rừng rậm với muôn
thú dử mà cọp, voi, beo, rắn,... cư
ngụ. Những người thổ dân ở
đây sống rất thiếu thốn, cơ
cực cho đến khi người Việt đến
khai hoang làm thành vùng đất trở nên trù phú.
Vào thế kỷ thứ 17, cư dân các
tỉnh Quảng Trị, Quảng Ngải và B́nh
Thuận bị thất mùa, nạn đói đe
dọa. Họ được khuyến khích di cư
nam tiến. Những làn sóng người Việt
di cư đến định cư khai khẩn
đất đai từ Hốc Môn lên Trảng Bàng
rồi qua G̣ Dầu lên tận núi Bà Đen. V́ người
Việt đến định cư mang theo ngôn
ngữ, phong tục, tạp quán hay văn hóa khác
với người Miên, nên khi người
Việt tràn đến đâu th́ người Miên
tự động lui về hướng tây
tức vào sâu sang biên giới nước họ.
Khi đó đất Tây Ninh được
triều đ́nh Huế sát nhập vào nền hành
chánh của tỉnh Gia Định (tức Phiên An
trấn). Khi Chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn
đánh đuổi bỏ chạy vào Nam, ông
chạy lên Tây Ninh ẩn náu, t́m đường
sang Miên, rồi bắt liên lạc cầu viện
quân Xiêm trợ giúp đánh lại nhà Tây Sơn.
Tuy vậy nhà Tây Sơn đánh bại quân Xiêm. Năm
1789 Chúa Nguyễn nhờ đến viện binh là
quân Pháp sang giúp. Năm 1802, Chúa Nguyễn Phúc Ánh
dẹp xong nhà Tây Sơn và lên ngôi lấy vương
hiệu là Gia Long, quốc hiệu là Đại
Nam quốc. Đến thời kỳ vua Thiệu
Trị và Tự Đức quân Thủy Chân
Lạp hay Cao Miên đem quân sang đánh phá
muốn chiếm lại đất đai, Tây Ninh
là lănh thổ tiếp giáp hai bên giằng co. Nhưng
cuối cùng quân Miên yếu thế thua cuộc
bỏ mộng lấy lại đất đai.
Trong những trận thư hùng với quân Miên, có
những anh hùng Việt Nam đền nợ nước,
trong đó quan tri phủ Huỳnh Công Giản mà
miếu thờ ông là một trong những chốn
di tích ghi công tiền nhân tại Tây Ninh.
Về lănh thổ hành chánh th́ tỉnh Gia Định
thời bấy giờ rất rộng lớn, nó
bao trùm các vùng đất Tây Ninh, Tân B́nh, Chợ
Lớn, Tân An và G̣ Công vào Sài G̣n. Sau này dưới
thời Pháp thuộc để dễ kiểm soát,
nền hành chánh mới qui định lại lănh
thổ mà vùng Trảng Bàng được làm ranh
giới phân chia hai tỉnh Tân An và Tây Ninh. Riêng
tỉnh Tây Ninh gồm hai vùng đất chính là Tây
Ninh và G̣ Dầu. Điểm đặc biệt
của thuở xa xưa đó đất Tây Ninh có
vô số cây bàng lác, là loại cây thổ
sản dùng làm bao xách hay làm đệm. C̣n G̣
Dầu là vùng đất cao có vô số cây
dầu mà người dân đốt làm đèn. G̣
Dầu lại chia làm hai vùng là G̣ Dầu Hạ nơi
có dân cư qui tụ sầm uất và G̣ Dầu
Thượng giáp ranh biên giới Miên. Dưới
thời chính phủ VNCH cải danh G̣ Dầu thành
quận Hiếu Thiện v́ nó tượng trưng
cho dân t́nh vốn trung hiếu, hiền ḥa.
Danh Lam Thắng Cảnh:
Nói về di tích hay danh lam thắng cảnh, đến
Tây Ninh người ta sẽ đi thăm Thánh
Thất Cao Đài, một Ṭa Thánh thật nguy nga,
tráng lệ, là nơi mà đạo Cao Đài
được phát sinh rất linh thiêng tại thánh
địa này. Kế nữa là rất nhiều
địa danh, những cổ miếu, những
cổ tự như Linh Sơn Cổ Tự với
núi Bà Đen, Chùa Ông Gia Ninh, Giếng Mạch Thiên
Nhiên, Cổ Tháp Prey Prasath di tích của người
Miên, Lăng Ông Huỳnh Công Nghệ, Miếu Ông
Gốc, Dinh Ông G̣ Dầu Thượng, Miếu Ông
Cả Trước, Miếu Thờ Ông Huỳnh Công
Giản, Miếu Thờ Ông Huỳnh Công Thắng,
Phước Lâm Cổ Tự, Thiền Lâm Cổ
Tự, Cẩm Phong Tự, Hiệp Long Cổ
Tự, Cổ Lâm Tự (Thanh Điền), Từ Lâm
Tự (G̣ Kén), Chùa Ông Phước Kiến, Đ́nh
Thái B́nh, Đ́nh Hiệp Ninh, Đ́nh Thạnh
Đức, Đ́nh Gia Lộc,... Do đó Tây Ninh là
một vùng đất linh thiêng, có nền văn
hóa lâu đời hổn hợp giữa người
Miên và Việt.
Thức Ăn:
Đến Tây Ninh người ta không thể quên
những tô bánh canh, những dĩa thịt heo
luộc cuốn bánh tráng, rồi món b́ ram, cháo ḷng
hay cháo bồi là những đặc sản
"rất Tây Ninh".
1) Cháo ḷng:
Cháo ḷng Tây Ninh gồm đủ lục phủ ngũ
tạng của loài heo như dồi trường,
lá mía, tim, cật, huyết và gan. Gạo
được rang cho thơm xong ta nấu cho
gạo nhuyễn nhừ cho các thứ ḷng vào
nấu chung cho chất ngọt do cốt trong các món
ḷng heo tiết ra. Công phu nhất là món dồi nướng
sả. Ruột già của heo mua về lật ngược
bề trong bằng chiếc đũa, xong chà sát
bề trong ruột với muối cho thật
sạch trong dung dịch dấm hoặc rượu
đế để khử mùi hôi. Xong phơi
ruột cho ráo. Khi dồn nhân làm dồi, ta
lật lại chiều của ruột nguyên
thủy. Nhân là thịt heo bằm nhuyễn
trộn chung với tỏi sả ớt bằm,
cho tiêu sọ hột vào nêm muối cho vừa
ăn (tùy khẩu vị, người viết
ăn khá lạt). Nhân được nhồi vào
ruột mà một dầu được thắt
bằng chỉ sợi. Đầu kia được
cột khi dồi được căng đều.
Xong ta nướng dồi bằng lửa than hay ḷ
điện. Món dồi này ăn với cháo hay lai
rai ba sợi với bia hay cognac pha Perrier cũng
bắt mồi không kém.
2) Cháo bồi:
Cháo bồi là ǵ? Nó chính là món cháo bột báng mà
phần thịt lại giống với món bánh
canh. Do vậy nhiều hàng bánh canh bán song song
với cháo bồi bột báng. Cháo được
rang thơm xong nấu thành cháo chín nhừ với
bột báng. Điểm dặt biệt của cháo
bồi khác cháo thường ở món bột báng.
Bột báng khi nóng làm cho cháo sền sệt
với độ lỏng trơn trui dễ
nuốt. Thịt heo nạc phần gị heo khi ta
cắt khoanh ra có da, thịt và gân. Điểm thêm
hành ng̣, tiêu và nước mắm th́ đúng
điệu cháo bồi.
3) Bánh canh:
Nói tới bánh canh th́ bột bánh canh có hai
loại là loại bột gạo trắng đục
và loại bột năng trắng trong. Theo kư
ức cũ của tôi th́ h́nh như người
Tây Ninh chỉ dùng loại bột gạo. Nước
lèo cho món bánh canh nấu tương tự như
món hủ tiếu hay ḿ nước, tức chúng
ta nấu nước dùng bằng xương heo.
Thịt cho món bánh canh th́ tận dụng tối
đa 4 cái gị của con heo, nghiă là chúng ta dùng gị
phần thịt và phần bàn chân heo có cả móng.
Tôi nhớ bà nội tôi dạy tôi ăn món này
đầu đời là lấy nước
mắm ngon (có nước mắm nhỉ th́ càng
tuyệt vời tâm tư) cho ớt chín đỏ
cắt khoanh vào, nặn chanh cho vị cay, chua và
mặn ḥa lẫn lộn cho lâm li vị giác. Món
này được t́m thấy nhiều nơi
từ Trảng Bàng về tới Tây Ninh.
4) Thịt và ḷng heo cuốn bánh tráng:
V́ các gian hàng hay các quầy bán cháo ḷng và bánh
canh dùng các sản phẩm heo, nên món khác
được tạo ra là món gị heo, thịt heo
hay ḷng heo luộc cuốn bánh tráng chấm nước
pha thật ngon. Món này cần có rau sống đi
kèm. Tây Ninh là miền đất trù phú do thiên
nhiên ưu đăi nên Tây Ninh có đủ loại
rau từ rau sống đến các loại rau
đọt chiết, hay những lá xanh non, có
vị chua rất bắt với món ăn cuốn
bánh tráng như b́ cuốn, nem cuốn, cá hấp
hay cá nuớng cuốn bánh tráng đến món
thịt hay ḷng heo cuốn bánh tráng.
5) Nước mắm chấm:
Theo công thức mẹ tôi lưu truyền trước
ngày tôi lên xe hoa về nhà vợ th́ nước
mắm được pha theo tiêu chuẩn như
sau:
- 2/3 chén nước mắm loại ngon hoặc khá
(loại dở có nồng độ mặn hơn,
độ đạm ít hơn, cần pha chế
gia giảm theo kinh nghiệm)
- 1/2 chén dấm trắng (có thể thay bằng
chanh)
- 1/3 đường cát trắng
- 2 chén nước lọc (nếu ăn lạt dùng
3 chén)
- Ớt, tỏi bằm tùy khẩu vị mà nêm vào.
Theo kinh nghiệm khẩu vị, mỗi người
ta biến chế theo cung cách riêng.
6) Món b́ ram:
Tây Ninh làm món b́ có phần hơi khác với các
tỉnh khác v́ cách làm thịt cho món b́ theo cung cách
khác. Đa số các tỉnh luộc thịt heo
xong rồi thái sợi. Kiểu Tây Ninh là ram hay chiên
thịt heo cho tỏi vào dầu phi thơm, khi
thịt chín vàng óng ả, vớt ra dùng chầy
hay bề sống của dao phay (phần lưng không
nhọn) dần cho mềm và tưa ra. Xong ta
trộn thính và b́ tươi vào thịt tưa nêu
trên. B́ thịt này dùng chung cho cơm tấm, b́ bún
hay b́ cuốn.
Về Văn Học:
Những sinh hoạt thi văn đàn đă phát
sinh rất thịnh hành tại Tây Ninh mang vào
lịch sử của tỉnh này bao nhân tài văn
thơ. Dù hoạt động của họ về
thi văn khá nổi bật trong địa bàn
miền nam. Đầu thế kỷ 19, khi nền
văn học chữ quốc ngữ được
phát triển th́ nhóm nhà thơ tiền bối Tây
Ninh ra đời năm 1915, họ họp nhau
lại làm thơ, họa thơ và ngâm thơ.
Những nhân vật tiêu biểu là cụ Đốc
phủ Tô Ngọc Đường, cụ Hương
cả Huỳnh Văn Tâm, cụ Hương
lễ Vơ Văn Sâm gọi tắt là Vơ Sâm là nhưng
gương mặt lănh đạo thi đàn.
Cụ Vơ Sâm trở thành nhân sĩ đại
biểu cho Tây Ninh, cụ cũng là soạn
giả biên khảo quyển "Thi Phú Văn
Từ" được giới văn học
thời bấy giờ trọng nể. Nối
tiếp nhóm Thi Đàn của cụ Vơ Sâm là Văn
Đàn Quốc Biểu của cụ Nguyễn Văn
Hiến. Nhóm Quốc Biểu sinh hoạt văn
học họp nhau định kỳ mỗi
tuần trao đổi văn thơ. Họ họp
nhau tại G̣ Chẹt tại Tây Ninh. Nhóm này quy
tụ khá nhiều thi văn hữu như quư ông:
Thanh Vân, Nguyễn Toại Chí, Thanh Phong, Nguyễn
Văn Trí, Lâm Tuyền, Vơ Trung Nghiă, Vơ Văn
Tấn, Sầm Sơn, Nguyễn Văn Vàng, Du
Tử, Mai Huê, Lê Văn Thành, Nhà Quê, Dương
Văn Kim, Nhất Thiện,...
Một trong những sinh hoạt nổi bật là
nhóm của quư cụ tiền bối Vơ Sâm và Tô
Ngọc Đường xướng họa cùng
nữ sĩ Sương Nguyệt Anh của
tỉnh Bến Tre. Bà là con gái của cụ Đồ
Nguyễn Đ́nh Chiểu. Nhân dịp xuân tân niên
Tân Sửu 1901, làng thơ Tây Ninh tổ chức
hội thơ tại Điện Núi Bà hay Linh Sơn
Thánh Mẫu, nơi thắng cảnh thiên nhiên
rất hùng vỹ, uy nghi, trước những hàng
mai trắng đang trổ hoa mừng xuân, nữ sĩ
Thụy Khuê Sương Nguyệt Anh cảm tác ba
bài thơ mà tôi xin trích hai bài tiêu biểu là
"Thưởng Bạch Mai Cảm Đề"
và "Linh Sơn Nhất Thụ Mai" đề
tặng làng thơ Tây Ninh để tạ ḷng
lời mời của các thi nhân nặng t́nh thi phú
Tây Ninh và Bến Tre như sau:
"Non Linh đất phuớc trổ hoa nhân
Riêng chiếm vườn hồng một cảnh
xuân
Tuyết đượm nhành tiên in sắc
trắng
Sương pha bóng nguyệt ánh màu ngân
Mây lành gió lạnh nương hơi chánh
Vóc ngọc ḿnh băng hắt khói trần
Sắc nước hương trời nên cảm
mến
Non linh đất phước trổ hoa thần.
("Thưởng Bạch Mai Cảm Đề")
Và bài thơ Đường bằng hán tự
khi xuân về tại Linh Sơn mà nữ sĩ
Thụy Khuê cảm tác:
"Quỳnh tư ngọc cốt bản thiên
chân
Tịnh độ cô liêu viên tục trần
Noăn nhập ám hương xuân dật từ
Hàn xung sơ ảnh nguyệt tà thần
Tuyết trung tự khước lưu phong vận
Phong ngoại ưng liên đạp tuyết nhân
Thừa hứng mạc hiếm sơn thủy
viễn
Đồng lai dữ tử phú dương xuân".
("Linh Sơn Nhất Thụ Mai")
Bài thơ trên được thi sĩ Hi Đạm
của Tây Ninh chuyển ngữ sang nghiă Việt:
"Ngọc quỳnh cốt cách trời ban
Đất tịnh trơ vơ lánh thế gian
Ấm áp hương đầm xuân buổi
sớm
Lạnh lùng bóng nhạt nguyệt đêm tàn
Nghĩ thân ánh tuyết hơi sương
đượm
Thương kẻ hài sương gót tuyết chan
Mến cảnh nước non xa chớ ngại
Cùng lên ngâm vịnh tứ xuân tràn."
Tóm lại Tây Ninh cũng như bao tỉnh khác
có những cái chung và riêng trong lịch sự
cấu tạo thành lănh thổ Việt Nam. Bao
thế hệ đi trước đổ mồ hôi,
đổ xương máu khai phá đất đai
thành vùng đất trù phú từ một vùng
đất chỉ có rừng rậm. Viết
những lời này ra đây tôi muốn tri ân t́nh
quê hương đậm đà đă cho tôi chào
đời và đầy ắp kỷ niệm quê
hương khi tắm nước sông Vàm Cỏ
Đông, những kỷ niệm chèo ghe cḥng chành
trên sông với các bạn địa phương,
những kỷ niệm khó quên của miệt
đồng quê tại nơi mà tôi gọi là quê
hương, nó xao xuyến, ngọt ngào như
những ḍng nước mưa rào đổ
xối xả của những ngày tắm mưa vô
tư lự trên những con đường đất
đỏ lầy lội, để kỷ niệm
hiện về quyện lấy tâm thức tôi
cả một cuộc đời này, nó sẽ măi
như lời của bài hát mà nhạc sĩ Quách
Nam Dung từ bên vùng nam cực của xứ Úc
Đại Lợi đă viết tặng cho quê tôi
với bao ân t́nh non sông gấm vóc trong lời
nhạc sau đây:
"... Linh Sơn cheo leo, núi thiêng chốn xưa,
tiếng kinh vắng xa
Tây Ninh thân yêu, giấc mơ thiết tha, sống
trong thái ḥa
Ai qua nơi đây, nhớ Thánh Mẫu xưa,
hiển linh..."
("Tây Ninh Quê Tôi", Quách Nam Dung)
Sau cùng, tôi muốn mượn những câu thơ
tiêu biểu của thi sĩ Bửu Đà diển
tả qua bài "Tây Ninh Cảm Tác" là:
"Tây Ninh là tỉnh hiền lương
Bên đời, bên đạo t́nh thương
đậm đà
Trời thương đất lợi người
ḥa
Tinh thần hướng thiện trên đà nghiă
nhơn."
Với bao nỗi nhớ về quê xưa, hôm
nay tôi ngồi đây bằng ḍng viết này cách
quê tôi 22 ngàn dặm hay nửa quả địa
cầu, tôi chạnh ḷng cảm tác lại quê tôi
qua bài thơ "Nhớ về quê tôi":
"Vàm Cỏ Đông nước chảy
hiền ḥa
Đồng lúa vàng gợi nhớ t́nh ta
Con diều căng gió khung trời xưa
Quê hương bao phủ ánh chiều tà
Chim trời soải cánh về chốn cũ
Núi Bà hùng vĩ áng mây xa
Hỏi ai vương vấn mộng bồi
hồi?
Đếm nhớ thương ôi sao đậm
đà!"
Việt Hải
Tây Ninh, quê tôi đó, nơi mà người dân
làm lụng cần cù lại mang đặc tính
hiền ḥa để tôi măi măi nhung nhớ
về G̣ Dầu, về Tây Ninh và vui sướng
được nh́n nhận như một người
con của vùng đất quê tôi. Mỗi con người
được sinh ra ở một miền nào
đó, dù ph́ nhiêu hay nghèo khổ, dù được
thiên nhiên đăi ngộ hay không th́ nó vẫn là
quê hương. Nếu Việt Nam của tôi là
một đất nước thiêng liêng luân lưu
trong ḍng huyết quản, đẹp đẽ
về địa lư và văn hóa, th́ Tây Ninh
của tôi cũng trong sáng trong hai yếu tố
đặc trưng đó: Chỉ v́ Việt Nam và
Tây Ninh đều là quê hương tôi, và tôi
đă gắn bó bằng từng thớt thịt,
bằng khối óc, bằng con tim hay bằng
với cả hai yếu tố đặc trưng
đă nêu từ tiềm thức xa xưa của
thuở thiếu thời và của hoài niệm
đă qua sẽ măi măi ngự trị trong tâm
hồn tôi, cho nỗi niềm ấp ủ mang theo
trong ḷng người con lưu lạc của quê hương
đă thật sự xa xôi cách trở v́ địa
lư, để Tây Ninh quê tôi vĩnh viễn trong
nhớ nhung và trong nhớ thương.
Trần Việt Hải
Mùa Hè 2004 tại Nam California
* Tham khảo sách: "Tây Ninh Xưa",
Huỳnh Minh
(*)
Bài của anh Việt Hải đă đăng trên VietNet
Australia ngày 27 October 2004. Chia sẻ trên ERCT với sự đồng
ư của anh Việt Hải.
Anh Việt
Hải mong nhận những ư kiến đóng góp
xây dựng. Xin E-mail về : viethai712@yahoo.com |
|