|
[ Trở về
]
NÓI
LÁI MÀ CHƠI...
GS Huy Phương -
12 tháng 3 năm 2004 - www.khoahoc.net
Nói lái là một
lối nói ghép chữ, đem phụ âm tiếng
trước ghép với cả âm tiếng sau
hoặc ngược lại mà ta thường
gặp, thường dùng trong ngôn ngữ Việt
Nam, ví dụ như cá đối # cối đá (
giữ nguyên các dấu) hoặc thay đổi
dấu như mèo cụt # mút kèo. Ngôn ngữ
Việt Nam vốn đơn âm, nên những
tiếng nói lái tương đối dễ
cấu tạo và dễ có nghĩa .Tiếng nói lái
trở lại chỉ có ư nghĩa khi nó trở thành
một nghĩa khác, nếu nó vô nghĩa ( như
con gà # cà gon ) th́ không thể gọi là nói lái
được. Đây là một đặc điểm
của ngôn ngữ Việt nam mà từ khi có
tiếng Việt chúng ta đă có nhiều giai
thoại, nhiều tác phẩm văn chương
đă đi vào văn học sử, không
những ta thấy nhiều kiểu nói lái trong văn
chương b́nh dân ( tục ngữ, ca dao) mà c̣n
cả trong văn chương uyên bác ( thơ
Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Khoa Vi ). Không
phải như lối nói lái (speak pig latin) hay nói
lịu ( spoonerism) trong Anh Ngữ (*), lối nói lái
trong ngôn ngữ Việt Nam đa dạng, dễ dùng
, dễ phổ biến và có nhiều ư nghĩa thâm
trầm, ư nhị .
Tuy nhiên đặc điểm nói lái trong ngôn
ngữ Việt Nam phần lớn thường có
khuynh hướng thiên về dung tục, ghi chép
ở trong sách vở hay phát biểu giữa nơi
công cộng thường không được tao
nhă cho lắm . Nhiều người đă lợi
dụng lối nói lái thô tục trên sân khấu,
trong các buổi tŕnh diễn để chọc cười
khán giả, khiến cho nhiều bậc thức
giả phải khó chịu nhăn mặt. Có
lẽ v́ vậy mà sự phát triển của cách
nói lái qua thời gian đă có nhiều đóng góp
cho ngôn ngữ nhưng vẫn chưa được
sắp xếp xem như một phần của ngôn
ngữ và văn học Việt Nam, dù là chỉ
một phần nhỏ.
Nói về ư nghĩa, trong các giai thoại văn chương
Việt nam, người ta thường dùng
lối nói lái như một vũ khí để
phê b́nh, đả kích và phần lớn lại có
tác dụng mạnh mẽ, dễ gây nhiều
ấn tượng hơn là lối nói thông thường.
Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ muốn sưu
tập một vài tài liệu về nói lái trong văn
chương và thời sự Việt Nam với tính
cách một bài phiếm luận hơn là đi sâu
vào công tŕnh của một bài khảo cứu
về ngôn ngữ của một nhà ngôn ngữ
học. Mặt khác, trong bài này nhiều tiếng
nói lái phổ thông ai cũng hiểu, chúng tôi tránh
không ghi rơ các tiếng nói lái thô tục để
tránh làm phiền độc giả.
1. NÓI LÁI TRONG VĂN
CHƯƠNG B̀NH DÂN.
Trong nhân gian, khi xử dụng ngôn ngữ trong khi
giao tiếp hàng ngày, người ta thường
tránh những tiếng có thể gây ngộ
nhận, v́ khi những tiếng nói ấy
được phát ra, người ta nghĩ ngay
đến tiếng nói lái kèm theo thô tục và
suồng să. Nhiều người trẻ tuổi v́
không hiểu cách nói lái đă bị hiểu
lầm khi vô t́nh xử dụng các tiếng nghe
rất thông thường nhưng rất tục
khi được nói lái lại như : nắng
cực, đồn lầm, công ngủ., trái ǵ ?
trái giứng... có rất nhiều trong ngôn ngữ
Việt Nam.
Trái lại trong ca dao, câu thơ ví von sau đây, nói
lái, đối đáp rất có ư nghĩa và thanh
nhă:
- Con cá đối nằm trên cối đá
Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo
Anh mà đối được, dẫu nghèo cũng
ưng.
- Con mỏ kiến đậu trong miếng cỏ
Chim vàng lông đáp dựa vồng lang
Anh đà đối đặng, e nàng vong ngôn.
Trai gái miền trung hẹn ḥ gặp gỡ nhau,
sợ có người nghe th́ t́m cách nói lái
vẩn vơ về ruộng đồng, rơm
rạ để hiểu ngầm với nhau. Chàng
nói bâng quơ : “bị môn, bị khoai, bị nưa”,
nàng khất:” cau khô, trầu héo, tái môi.”hay
“nón cụ, quai thao, tốt mối.” Hoặc “
bưởi đỏ, cam sành, tốt múi”..Người
qua đường không thể hiểu rằng
bị nưa là bựa ni (bữa nay), tái môi là
tối mai, tốt mối là tối mốt,
tối múi là túi mốt..
Chàng trai xưa kia có râu, cạo râu xong, cô gái
nhận không ra. Chàng bèn làm thơ …nói lái như
vầy :
Xưa tê câu ró ngó xinh
Bây giờ câu rạo vô t́nh ngó lơ.
Th́ ra câu ró, câu rạo không dính líu xa gần
với chuyện đi câu cả.
· Trong văn chương b́nh dân có lối ḥ
tục nói lái như đoạn ḥ sau đây:
Anh đi về cẳng thấp cẳng cao,
Em cũng mời anh vô hút thuốc ăn trầu,
Kẻo thế gian lắm lời, nói ở
“dồn lâu” mói về.
Đáp:- Anh cũng muốn vô nhà, ghé hút thuốc
ăn trầu,
Nhưng sợ mai tê quan biết được, nói
“dặt cầu” em leo.
*
2. GIAI THOẠI
VỀ TRẠNG QUỲNH NÓI LÁI.
Trạng Quỳnh tên thật là Nguyễn
Quỳnh, sinh dưới thời Lê Trung Hưng(
1530-1540), quán Nghệ An là người hay chữ,
thông minh xuất chúng, với bản tính nói ngông
hay châm chọc vua chúa quan quyền thời bấy
giờ đă để lại nhiều giai
thoại trong lịch sử. Trạng Quỳnh
một lần đă dâng lên chúa Trịnh một
lọ thức ăn mà Quỳnh đă khoác lác là
một món ăn tuyệt hảo, ngoài có đề
hai chữ Đại Phong. Sau khi ăn thử, chúa
Trịnh cật vấn trạng về món ăn
lạ, th́ Trạng giải thích rằng Đại
Phong là gió to, gió to th́ tượng lo, tượng
lo nói lái là Lọ Tương. Một lần khác
đểâ dằn mặt một công chúa thời
bấy giờ có tính khinh người và kiêu căng,
trên đường công chúa sắp đi qua,
Trạng Quỳnh xắn quần xuống chiếc
ao vệ đường liên tục lấy chân
đá vào những cánh bèo trên mặt ao. Thấy
lạ, quan quân dừng lại để công chúa
hỏi chuyện, th́ Trạng nói Trạng đang
đá bèo,chúng ta phải hiểu trạng
Quỳnh đang chơi xỏ công chúa.
Nhân gian cũng truyền tụng Trạng Quỳnh
là tác giả câu nói lái con gầy- cây g̣n , sương
làm sáo- làm sao sướng và may ngón tóc- móc ngón
tay...
3. NÓI LÁI TRONG THƠ
HỒ XUÂN HƯƠNG.
Hồ Xuân Hương với những bài thơ
tả vật, tả cảnh đă dùng những h́nh
tượng , chữ nghĩa rất táo bạo
khiến cho người ta thường nghĩ ngay
đến các sinh thực khí hay những quan
hệ giữa nam nữơ, như một ám ảnh
tâm lư, nếu nói theo các nhà phân tâm học.(
Vịnh Cái Quạt, Đánh Cờ Người,
Quả Mít, Đèo Ba Dọi…) lẽ cố nhiên
nhà thơ họ Hồ cũng không quên dùng
nhiều chữ theo lối nói lái một cách táo
bạo trong thơ bà, mà người đọc ai
cũng hiểu:
…Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo. (Kiếp Tu Hành)
…Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm Sư cụ đáo nơi neo.
Chày ḱnh, tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt, vải lần đếm lại
đeo.(Chùa Quán Sứ)
…Đang cơn nắng cực chửa mưa hè,
Rủ chị em ra tát nước khe.(Tát Nước)
…Thú vui quên cả niềm lo cũ
Ḱa cái diều ai nó lộn lèo.( Quán Khách)
Nhân nói chuyện lái trong thơ Hồ Xuân Hương,
chúng tôi xin trích dẫn một bài thơ nói lái
của một tác giả vô danh nhan đề là
Trông Trời ( xin đọc theo kiểu bắc là
Chông Chời ):
Cô kia sao cứ trông trời
Để tôi xin nguyện làm trời cô trông
Trông trời sướng lắm phải không
Trời mà trông lại c̣n mong nỗi ǵ !
BÀI THƠ NÓI LÁI
THỜI KHÁNG CHIẾN.
Trong thời kháng chiến chống Pháp, khoảng
những năm 1951- 52, sau Đại hội Đảng
Lao Động ,chính phủ CS bắt đầu
tinh giảm biên chế và loại các thành
phần tiểu tư sản ra khỏi bộ máy
công quyền, một bài thơ nói lái do một nhân
vật vô danh bất măn bỏ kháng chiến
về thành tung ra rất được phổ
biến. Chính v́ những tiếng nói lái đặc
biệt ( tiếng Hán Việt lái thành tiếng nôm
) mà bài thơ được người ta
nhớ lâu và truyền tụng :
Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi
Chiến khu thu cất chú khiêng rồi
Thi đua thắng lợi thua đi măi
Kháng chiến lâu ngày khiến chán thôi.
GIAI THOẠI NÓI LÁI
THỜI PHÁP THUỘC.
Một giai thoại thời thủ tướng
Nguyễn Văn Tâm được lưu
truyền ở miền nam như sau: hồi
Thủ Tướng Tâm c̣n là Quận Trưởng
Cai Lậy ( có biệt danh là Hùm Xám Cai Lậy ) lúc
ăn mừng tân gia, có người đem
tặng một bức hoành có khắc bốn
chữ nho : “ Đại Điểm Quần
Thần” tạm dịch nghĩ a là “bề tôi
chức vụ lớn”. Nguyễn Văn Tâm
lấy làm hănh diện đắc ư, nhưng sau
đó có người phát giác ra là ông Tâm bị
chưởi xéo, v́ bốn chữ Đại Điểm
Quần Thần, dịch nôm sát nghĩa là
Chấm To Bầy Tôi.. nói lái ra thành Chó Tâm
Bồi Tây.
Lối nói này cũng phổ biến như người
ta nói tới một người đàn bà “ bách
diệp”, nghĩa nôm là “trăm lá”, nói lái là
“tra lắm” ( già lắm).
NÓI LÁI SAU THÁNG
5-1975.
Sau tháng 4 năm 1975, khi CS cưỡng chiếm
miền Nam, dân t́nh cực khổ ta thán, do đó
trong nhân gian có những câu nói lái rất phổ
thông:
Quy mă là… Qua Mỹ , hay :
Kỷ sư đôi lúc làm cư sĩ
Thầy giáo lắm phen cũng tháo dày.
Giáo chức giờ đây đành dứt cháo
Khoái ăn sang nên... sáng ăn khoai.
Nói về tệ nạn cửa quyền tham nhũng
của chế độ và các tệ nạn th́
nhân gian có các câu nói lái :
Thủ tục đầu tiên là ..tiền đâu
?
Vũ Như Cẩn là Vẫn như cũ.
Nguyễn Y Vân là Vẫn Y Nguyên
Bùi Lan là Bàn Lui
Hộ khẩu là… Hậu khổ.
Đả kích chế độ th́ thiên hạ có
câu:
Con đường Bác đi, đường bi
đát
Chán bảng đỏ, nhiều anh bỏ đảng.
Chỉ riêng ngành giáo dục không thôi đă có
nguyên một bài nói lái tự thán như sau :
Thầy giáo tháo giày đi dép
Nhà trường nhường trà uống nước
trong
Tháng đầy thầy đáng dăm lon gạo
Lương thầy tiền lính tính liền xong
Thầy giáo tháo ủng tháo giày
Tháo ủng thủng áo tháo giày nóng chân
Giáo án dành lại khi cần
Thay vải dán áo việc làm tốt thôi.
THƠ NÓI LÁI… KHÔNG
TỤC.
Cụ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi là một nhà thơ
Đất Thần Kinh, ở Vỹ Dạ đă làm
một bài thơ nói lái rất công phu và có ư nghĩa
như sau:
Cầu đạo nên chi phải cạo đầu
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu
Na bường bát tới nương bà vải
(**)
Dầu săi không tu cũng giải sầu.
Ông Tôn Thất Đàm ở Úc đă có một bài
nói lái nhan đề “Má Con” như sau:
Má đưa con đi trong mưa đá
Má đặt con lên mặt đá bằng
Má đi vào xem mi đá bóng
Má đang mang đá tới lót nền
Má lột một lá dính vào phên
Má lấy bên hè đi mấy lá
Má ḷn ṃn lá cửa ngoài hiên
Má cần mần cá để kho liền
Má cắt con mắt cá đầu tiên
Má cũng mua đầy hai mủng cá
Má can con ăn mang cá ḱnh.
Trong nhân gian, người ta rất thích thú
được nói lái và nghe nói lái, có khi bất
chợt t́nh cờ vô ư mà tiếng nói ra thành
một tiếng nói lái, có khi người ta t́m cách
đẽo gọt, t́m ṭi để kiếm ra
những từ nói lái có ư nghĩa. Tác giả có
thể là một mà cũng có thể là nhiều
người, dần dà ngôn ngữ nói lái thành ra
tài sản chung, đóng góp vào trong kho tàng văn
chương b́nh dân của ngôn ngữ Việt
Nam. Chúng tôi xin trích dẫn một số tiếng
nói lái thông thường mà chúng ta hay bắt
gặp trong cuộc sống hằng ngày :
trễ giờ th́ trở (về) dề,- ôm
nhiều thành yếu và yêu nhiều thành ốm, -
đơn giản như đang giỡn,- chà đồ
nhôm là chôm đồ nhà,-cây c̣n ( mộc tồn
) là con cầy
và nói lái tiếng tây : très chaud ( nóùng quá ) thành
trop cher ( đắt quá ).
Như chúng tôi đă nói ở đầu ,trong bài
nói lái này chúng tôi không có tham vọng làm công
việc nghiên cứu mà chỉ thâu lượm
một ít tư liệu rất hạn chế
về nói lái để mua vui cho quí vị độc
giả. Trong giới b́nh dân có rất nhiều câu
nói hoặc chuyện nói lái rất thô tục,
rất dễ nói lái với những tiếng có
vần”ôn” như môn, tôn...chủ yếu
nhắm vào các bộ phận sinh dục và
chuyện quan hệ giữa nam nữ ...mà trong thơ
Hồ Xuân Hưong chúng ta cũng đă thấy ít
nhiều, như ta thường nghe trong dân gian như
“ đạo dụ !”, “ điện lu”, “
cụ Đệ”, “mụ Đắc”... Chúng tôi
hy vọng bạn đọc sẽ có nhiều tài
liệu đóng góp cho chương nói lái trong ngôn
ngữ và văn học Việt Nam, v́ quả
thật đây là một chương rất đặc
biệt không ai có và không giống ai.
Huy Phương
(*)1. Speak Pig Latin là đem âm này sang ghép với
phụ âm của chữ kia và ngược lại
( giống như trong tiếng Việt tháo giày # thày
giáo ) nhưng hoàn toàn chữ nói lái lại không
có nghĩa. Ví dụ speak # eak/spay hay stupid #
upi/stay.Người ta dùng những chữ này để
làm nhẹ nghĩa câu nói, thay v́ nói he's stupid th́
ḿnh chỉ nói he's upis/stay.
Nói lịu (spoonerism) là cách nói đem phụ âm này
qua ghép với âm của chữ sau, như blushing
crow ( con quạ đỏ mặt ) thành crushing blow(
cú đấm bể mặt). Giáo sư William
Archibald Spooner ( 1844-1930 ) tại Đại Học
Oxford, lúc về già, trong lúc giảng dạy sinh viên
ông thường nói lịu. Thay v́ nói You have missed
my history lecture (anh vắng một bài thuyết tŕnh
về lịch sử của tôi) th́ ông nói You
hissed my mystery lecture, (anh �x́� một bài
thuyết tŕnh bí mật của tôi), hay show you to a
seat ( chỉ cho anh một chỗ ngồi ) th́ ông
nói sew you to a sheet (may anh vào một tờ
giấy), thay v́ wasted the whole term ( phí nguyên một
học kỳ ) th́ nói tasted the whole worm (nếm nguyên
một con trùn ). Lối nói này trong Anh Ngữ
trở thành lối nói spoonerism, là lối nói
của giáo sư Spooner, như kiểu nói lịu
trong tiếng Việt của chúng ta.
(**) Na bường bát tới : nói giọng Huế
là đem b́nh bát tới.
(***) Sách tham khảo :
1. Trạng Quỳnh- Hoàng Trúc Ly ( không đề
nhà xuất bản)
Kho tàng ca dao ( Nhiều tác giả) -Nhà Xb Văn Hóa
Việt Nam)
Longman Dictionnary of Language& Culture 1992.
Đặc San Thương Về Xứ Huế ( QHĐK
Nam Cali 1999)
Tập San 48-55 Khải Định 1999.
[ Trở về
]
|
|