|
DÙNG DƯỢC PHẨM Ở NGƯỜI CAO TUỔI Bác sĩ Nguyễn Ư Đức - Diễn Đàn Y Khoa
Thuốc hay dược
phẩm được định nghĩa là
chất lấy ở thực vật, khoáng
vật, sinh động vật, hóa chất
với mục đích trị bệnh, pḥng
ngừa bệnh, phục hồi các chức năng
của cơ thể hoặc thay đổi quá tŕnh
sinh sản v.v.., khi được dùng đúng lúc,
đúng cách, trong một thời gian nhất
định.
Trước năm
1920, dược phẩm trên thị trường
rất ít, công dụng tuy giới
hạn nhưng an toàn hơn. Ngày nay, có rất
nhiều thuốc công hiệu nhưng lại gây
một số tác dụng phụ nguy hại,
bất lợi. Nếu trong việc cho toa, bác sĩ
cần cân nhắc loại thuốc thích hợp
với y chứng, phân lượng vừa đủ
và thời gian xử dụng, th́ người
bệnh cũng cần thực thi đúng theo hướng
dẫn của bác sĩ: thuốc nào, bệnh
nấy. Quư vị lăo niên
ta rất chăm lo tới sức khỏe, nên
rất chăm chỉ trong việc t́m thuốc
trị bệnh. Thấy có một triệu
chứng bệnh nào là quư vị kiếm
thuốc ngay: do bác sĩ biên toa, hoặc qua
sự giới thiệu của bạn bè, đọc
sách báo y học, mua trên mạng vi tính.
Thành ra, một
vị trên 65 tuổi, có khi uống đến
cả 7,8 thứ thuốc trong một ngày.
Thuốc bệnh do bác sĩ cho về cao
huyết áp, thuốc bao tử, thuốc đau
nhức, phong thấp, vài viên thuốc ngủ, kèm
thêm ít thuốc ta để bổ gân, bổ
thận do bạn bè giới thiệu, lại c̣n
sinh tố, anti oxidant.
Với một
hỗn hợp nhiều hóa chất khác nhau như
vậy e rằng chúng sẽ gây ra những tác
dụng tương phản, đôi khi có
hại, cho một cơ thể đă có
nhiều thay đổi về cấu tạo cũng
như chức năng.
Hàng năm,
số bệnh nhân cao tuổi nhập viện
khẩn cấp do hậu quả của sự
xử dụng thuốc không đúng cách lên
rất cao, nhất là với thuốc về
bệnh tâm thần.
Chúng tôi xin cùng quư vị t́m hiểu thêm về vấn đề xử dụng thuốc này để duy tŕ một sức khỏe b́nh thường hơn.
Công dụng
của dược phẩm.
Về phương diện trị liệu, sự xử dụng dược phẩm nhằm vào những mục tiêu chính như:
1.
Trị lành bệnh
Khi mắc một
bệnh nhiễm vi trùng, như sưng phổi,
ta sẽ có những triệu chứng ho, nóng
sốt cao, mệt mỏi, khó thở. Sau khi khám
bệnh, bác sĩ cho uống thuốc kháng
sinh trong ṿng 7-10 ngày. Sau đó nhiệt độ
giảm, ta bớt ho và trở lại b́nh thường.
Như vậy thuốc kháng sinh đă tiêu
diệt vi trùng và ta đă lành bệnh.
2.
Thay thế những yếu tố thiếu trong cơ
thể
Một người
mắc bệnh thiếu máu, hồng huyết
cầu thấp, v́ ruột không hấp thụ
được sinh tố B12. Bác sĩ cho chích
mỗi tháng một mũi Vit B12 để thay
thế sinh tố thiếu trong cơ thể.
Bệnh nhân bị
tiểu đường v́ tụy tạng
tiết ra rất ít Insulin, sẽ được
chích Insulin nhân tạo mỗi ngày để
giữ mức đường trong máu b́nh thường.
Sự thay
thế như vậy là cần thiết và đạt
được mục tiêu làm cơ thể
trở lại b́nh thường sau thời gian
bệnh v́ thiếu những chất kể
trên.
3.
Ngăn ngừa sự phát triển một
bệnh
Cũng trong trường
hợp bệnh tiểu đường, Insulin c̣n
duy tŕ bệnh ở t́nh trạng không gây ra
những biến chứng nguy hiểm như hư
mắt, hư thận và nếu ngưng Insulin,
bệnh sẽ trầm trọng thêm lên.
Người bị
cao huyết áp nếu ngưng uống thuốc
trị cao máu, bệnh sẽ nặng hơn
và có thể gây tai-biến-mạch-máu-năo, kích
xúc tim.
Trong các bệnh
này, dược phẩm không những có công
dụng điều trị mà c̣n ngăn ngừa
biến chứng của bệnh.
4.
Thuốc để làm dịu một
triệu chứng
Thí dụ như
khi ta bị đau nhức ḿnh mẩy v́ làm vườn
quá sức hay nhức đầu v́ uống rượu
quá nhiều, thường thường ta
uống một viên Tylenol hay Aspirin.
Thuốc không làm
hết bệnh, mà chỉ làm dịu cảm giác
đau, khó chịu. Nhiều khi chẳng cần
thuốc, mà chỉ cần nằm nghỉ vài
giờ là hết đau.
Số lượng
thuốc dùng trong mục đích xoa dịu này
rất nhiều, đôi khi có sự lạm
dụng.
5.
Pḥng ngừa bệnh
Các thuốc này
hoặc tạo ra tính miễn dịch hoặc
hỗ trợ hệ thống miễn nhiễm
của cơ thể như chích ngừa cúm, phong
đ̣n gánh.
Nhờ sự chích
ngừa này mà nhân loại tránh được
nhiều bệnh truyền nhiễm, gây tử
vong cao ở các thế kỷ trước, như
bệnh đậu mùa, dịch hạch...
Các tác động
có hại của dược phẩm
Với những công
dụng như trên, thuốc giữ một vai tṛ
quan trọng trong việc duy tŕ sức khỏe
của con người, nói chung, và của lăo niên
ta nói riêng.
Mà thuốc thường thường cũng chỉ là một hóa chất, có công dụng như nói ở trên, đồng thời cũng có tác dụng phụ không tốt, bất kể là thuốc ǵ, dùng nhiều hay là ít. Đó là những tác-động-có-hại của thuốc (Adverse drugs reaction).
Theo định
nghĩa của Cơ Quan Y Tế Thế Giới
th́ tác động này là bất cứ một
đáp ứng không mong muốn nào của cơ
thể, xẩy ra khi dùng thuốc theo phân lượng
để ngừa bệnh, định bệnh
hay trị bệnh. Tác động có hại
được chia nhiều loại:
1.
Dị ứng thuốc
Có nhiều tác động
hại không phải do dị ứng, nhưng
vẫn được công chúng hiểu nhầm
là dị ứng. Chẳng hạn như sau khi
uống thuốc, ta bị ói mửa, đại
tiện lỏng, sót ruột..th́ chỉ là tác
dụng tại chỗ của thuốc vào bao
tử.
Dị ứng là do
sự tác động của kháng thể đă
có trong máu, chống lại sự hiện
diện của dược phẩm, và gây ra
một số những triệu chứng khó
chịu, đôi khi nguy hiểm. Nó có tác dụng
ngược lại với cơ chế miễn
dịch, chống sự xâm nhập của
vi trùng.
Ban chẩn
với những lấm tấm đỏ trên da là
phản ứng thông thường nhất của
dị ứng.
Trường hợp
nặng sẽ có nóng sốt, khó thở, thở
kḥ khè, ngứa toàn thân, huyết áp giảm, tim
đập liên hồi, suy nhược tổng quát
...có thể nguy hiểm cho tính mạng, nếu
không được cấp cứu.
Phản ứng này
thường thấy khi chích thuốc Penicillin,
Insulin hay hóa chất dùng trong việc chụp h́nh
quang tuyến X. Nó có thể xẩy ra tức th́
hay chậm lại một thời gian. Cũng
nên nhớ là dị ứng có thể xẩy ra dù
chỉ dùng một phân lượng rất
nhỏ dược phẩm.
2.
Tác dụng độc của dược
phẩm
Dược phẩm là
một hóa chất, mà bất cứ hóa chất
nào cũng có tác dụng độc cho cơ
thể, ngoài giá trị chữa bệnh.
Viên Aspirin mà ta thường
uống để làm dịu nhức đầu,
phong thấp th́ cũng làm màng bao tử
trầy hư, gây xuất huyết. Thuốc
chữa các bệnh ung thư làm rụng tóc.
Thuốc trị cao huyết áp gây loạn cương
dương. Thuốc ngừa máu đóng cục
trong vài bệnh tim làm loăng máu, gây xuất
huyết, khó cầm khi bị thương hay
giải phẫu.
Đây không phải
dị ứng nhưng là tác dụng của
hóa chất mà trước khi dùng nó, ta đă
được giải thích rơ ràng.
3.
Tác dụng do phân lượng không đúng
Thuốc uống ít
quá, không có công hiệu, mà nhiều quá th́
dễ gây phản ứng có hại.
4.
Tác động bất thường , không rơ nguyên
nhân
Đáp ứng
của từng cá nhân với thuốc, như
lượng nhỏ thuốc tê có thể gây nóng
sốt, hay thuốc Tifomycine gây hủy hoại
hồng cầu.
Sau đây là
một số yếu tố có thể khiến tác
động bất thường của thuốc
dễ xẩy ra:
Đă có những
bệnh dị ứng.
Đă có phản ứng với thuốc trong quá khứ. Uống nhiều thuốc khác nhau v́ có nhiều bệnh kinh niên. Điều trị bởi nhiều bác sĩ chuyên khoa, mỗi người cho toa thuốc khác nhau. Có khó khăn về tài chánh, không mua đủ thuốc, dùng thuốc cũ, quá hạn. Khiếm khuyết thị giác, thính giác, không nh́n rơ mặt thuốc cũng như không nghe rơ lời dặn của bác sĩ, dược sĩ rồi uống thuốc không đúng cách. 5. Tác dụng giữa thuốc và thực phẩm
Đa số thuốc
ta dùng ở nhà là thuốc uống, mà thuốc
và thực phẩm đều được
hấp thụ vào máu qua bao tử, nhất là
ruột non.
Hiệu quả
của thuốc có thể tăng, giảm
hoặc không thay đổi, tùy theo loại
thực phẩm và tùy theo uống thuốc trước
hay sau khi ăn.
Do đó ta cần
hỏi bác sĩ, dược sĩ khi nhận
thuốc, để tránh phản ứng bất
lợi.
6.
Uống nhiều thuốc khác nhau
Vấn đề
đặc biệt quan trọng ở người
cao tuổi là uống nhiều thuốc cho
nhiều bệnh hay nhiều triệu chứng.
Thuốc đôi khi có tác dụng tương
phản nhau, gây không tốt cho cơ thể.
Hơn nữa, ở người cao tuổi, khả năng hấp thụ ở bộ máy tiêu hóa, biến hóa thuốc ở gan, và bài tiết dược phẩm qua thận đều giảm tới 40% so với tuổi trẻ, trung niên. Thời gian bán hủy của thuốc ở huyết tương kéo dài, và độc tính của thuốc tăng thêm.
Vài cách tránh
những điều bất lợi khi dùng
thuốc
Để sự
xử dụng thuốc có công hiệu, không
phản ứng, ta cần lưu ư những điều
sau đây:
Kê khai với bác sĩ
tất cả những bệnh ḿnh đang có,
những thuốc ḿnh đang uống, cả
thuốc mua tự do ở chợ hay thuốc do
bạn bè giới thiệu. Mồi lần đi
khám bệnh, mang ống, chai thuốc đă dùng
để bác sĩ dễ nhận diện
thuốc. Nhiều vị nói, “ấy kỳ trước
bác sĩ cho tôi viên hạt dưa trắng,
tốt lắm”, hay là “tôi đang uống
thuốc nước mầu hồng”, th́
chả ai biết là thuốc ǵ.
Theo lời chỉ dẫn của bác sĩ dược sĩ, đọc kỹ nhăn thuốc với cách dùng, giờ uống, uống lúc nào, bụng đói hay no, mấy lần một ngày. Chẳng hạn thuốc uống bốn lần trong một ngày, có thể là uống vào những bữa ăn và trước khi đi ngủ; hoặc cũng có thể là uống mỗi 6 giờ đồng hồ, kể cả thức dậy ban đêm để uống. Với thuốc nước, ta cần lắc chai cho thuốc ḥa đều với nhau trước khi uống. Không tự ư tăng hay giảm phân lượng, v́ ít quá, không có công hiệu, nhiều quá sẽ gây hại. Uống cho hết thời hạn bác sĩ dặn, chứ không phải thấy giảm bệnh là ngưng thuốc. Không uống thuốc trong bóng tối, có thể nhầm loại thuốc. Thông báo cho bác sĩ tác dụng phụ hay phản ứng của thuốc ḿnh đă có. Giữ thuốc nơi an toàn, xa tầm tay trẻ con, trong chai, lọ từ nhà thuốc tây, để tránh nhầm thuốc. Vứt bỏ thuốc quá hạn. Ráng nhớ tên thuốc cũng như công dụng của thuốc. Nếu có thể, nên mua thuốc ở một tiệm, như vậy dược sĩ sẽ có toàn bộ hồ sơ thuốc của ḿnh, có thể theo dơi, giải thích tác dụng các loại thuốc khác nhau cho ḿnh. Người dược sĩ không chỉ đóng vai tṛ cung cấp thuốc như trước đây. Họ có nhiệm vụ liên lạc với bác sĩ để tham khảo, lựa thuốc thích hợp cho bệnh nhân, hướng dẫn cách dùng thuốc, tác dụng tốt xấu của thuốc, theo dơi xem bệnh nhân có uống thuốc đều đặn không, phân lượng cho có ǵ bất thường hay không. Tŕnh bầy dược phẩm
Nói đến
thuốc, tưởng cũng nên t́m hiểu qua
về cách thức tŕnh bầy các tên thuốc.
Tại Hoa
kỳ, trước năm 1938, hễ có tiền
là ta có thể mua tự do bất kể
thuốc ǵ, không cần toa bác sĩ, trừ
thuốc có chất ma tuư.
Thế rồi,
khi đó có một viện bào chế tung ra
thị trường một dược phẩm
chứa chất ḥa tan độc, làm chết
cả trăm người. Chính quyền bèn can
thiệp, và từ năm 1951 cơ quan Thực
Phẩm và Dược Phẩm (Food and Drug
Administration - FDA) của chính phủ liên bang Hoa
Kỳ phân định rơ ràng thuốc
cần toa bác sĩ và thuốc bán tự do.
Thuốc
được bán với những tên khác nhau,
nhưng căn bản dược hóa chất
vẫn là một.
Khi viện bào chế khám phá ra một chất hóa học có giá trị chữa bệnh, họ bèn đặt cho nó một cái tên riêng(biệt dược), như đă tŕnh ṭa (Brand name ), độc quyền bán thuốc này ít nhất trong dăm năm.
Sau thời
gian đó các viện bào chế khác tự do
chế hóa chất đó thành dược
phẩm cùng có công dụng nhưng dưới
tên chung (generic ), nhiều khi mang tên khoa học
của hóa chất. Thuốc generic rẻ hơn
từ 25 tới 80 % và công hiệu tương
đương với biệt dược. Nhưng
giới tiêu thụ th́ vẫn thích biệt
dược hơn, v́ họ cho là tốt hơn.
Tên của thuốc tên riêng thường
ngắn, gọn, dễ nhớ và được
quảng cáo rộng răi, tốn kém rất
nhiều nên bán với giá cao hơn. Do đó
bảo hiểm cũng như thẻ khám bệnh
người già, người kém lợi tức
thường khuyến khích bác sĩ biên
thuốc tên chung.
Dược
phẩm được bào chế dưới
nhiều h́nh thức khác nhau
Thuốc có thể là
để chích thịt, dưới da, mạch máu,
khớp xương, có khi chích thẳng vào tim.
Thuốc uống th́ hoặc là viên, nước.
Có thuốc để dưới lưỡi,
xịt mũi, miệng tác dụng rất mau. Có
thuốc dán trên da, hóa chất ngấm thẳng
vào mạch máu, hay thuốc nhét hậu môn,
cửa ḿnh. Lại c̣n thuốc nhỏ
lỗ tai, con mắt, thuốc mỡ, thuốc nước
bôi ngoài da.
H́nh thức khác
nhau nhưng chúng có cùng công hiệu và có
những tiện lợi tùy theo loại thuốc
và bệnh trạng.
Nhiều khi
uống viên thuốc vào, nó chặn ở
họng hoặc v́ ḥa tan, nó làm sót đau
thực quản nơi ngực, ta có thể dùng
mẹo như sau: trước khi uống
thuốc, làm trơn cuống họng với
một ngụm nước,nuốt thuốc
với một miệng đầy nước
rồi sau đó uống chừng 1/2 ly nước
cho thuốc trôi xuống bao tử.
Nên đứng
hoặc ngồi để uống thuốc và
giữ vị thế này trong vài phút trước
khi nằm để tránh trường hợp
thuốc dội ngược lên miệng.
Kết luận
Sir Wiiliams Osler, người
thầy thuốc kiêm giáo sư Y khoa nổi danh
của Gia Nă đại, có nhận xét :
“Sự muốn dùng dược phẩm có
lẽ là một đặc trưng lớn nó phân
biệt con người với loài vật ”.
Nhưng, để
sự xử dụng này được công
hiệu như ư muốn và tránh được
tác dụng không tốt, cần có
sự hợp tác chân t́nh giữa bệnh nhân
với bác sĩ, dược sĩ và sự
hỗ trợ của gia đ́nh người
bệnh.
|