(Netmode)- 600
triệu người ngày nay đeo
biểu tượng của người
Croatia vòng quanh cổ và gần với
trái tim. Cho dù bạn có tin hay không,
rằng Croatia là quê hương của
những chiếc cà vạt hiện
đại ngày nay thì các nhà khảo
cổ học cũng đã đưa ra
những giả thiết hết sức
thú vị về lịch sử của
chiếc cà vạt, một lịch
sử từ rất xa xưa...
Người
ta đã và đang tranh cãi nhau rất
nhiều về sự ra đời
của cà vạt. Quốc gia nào cũng
muốn khẳng định đất
nước mình là quê hương
của cái dải bằng vải
diệu kỳ đó. Điều này cũng
rất dễ hiểu bởi đến
nay cà vạt đã trở thành vật
bất ly thân của các yếu nhân trên
toàn cầu, nó thể hiện cho phép
lịch sự tối thiểu của
con người khi tham dự vào các
buổi tiệc tùng hay lễ nghi, là
phụ tùng không thể thiếu cho các
bộ lễ phục của nhiều nước
trên toàn thế giới. Và nó cũng là
một trong những “phụ tùng” gây
đau đầu nhiều nhất, tiêu
tốn thời gian nhiều nhất cho
nhiều quý ông mỗi khi đứng trước
gương soi vào buổi sáng trước
khi bắt đầu một ngày làm
việc quan trọng.
Khởi
nguồn từ La Mã?
Trước
đây, người ta cho rằng cà
vạt có xuất xứ từ La Mã,
bắt nguồn từ những chiếc
khăn quấn cho ấm cổ của
quân La Mã (gọi là focalium). Chữ này
bắt nguồn từ chữ fauces
(cổ họng). Sau này có thêm khăn
sudarium nghĩa là một loại khăn
tay. Thế nhưng cội nguồn
của những cái khăn thì theo
nhiều sử gia lại chính là sự
biến thái của những vòng đeo
cổ bằng đá quý hay vò sò,
vỏ ốc của người dân Ai
Cập.
Các
nhà nhân chủng học cũng đồng
ý như vậy khi tìm hiểu cội
nguồn văn minh của những
bộ tộc ở Nam Mỹ và Châu Phi.
Cũng giống như nhiều các
loại phụ tùng khác của thời
trang, khăn cổ cũng là một cách
để phân chia giá trị của con
người, giai cấp trong xã hội và
phân chia thứ bậc trong quân đội.
Người nghèo khó thì quàng khăn cũng
được mà không có cũng
chẳng sao, còn khăn của giới
hoàng tộc phải được làm
bằng tơ lụa. Màu khăn cũng
là tiêu chuẩn để phân thứ
bậc trong xã hội như khăn màu
đỏ chỉ để dành riêng cho
bậc thiên tử hoặc hàng "danh
gia vọng tộc". Binh sĩ La Mã xưa
cũng phân chia giai tầng theo màu
sắc của những chiếc khăn.
Chẳng hạn như binh lính quấn
khăn màu xanh, “sĩ quan” quấn khăn
vàng, còn khăn đỏ là dành cho
bậc tướng lĩnh, được
quyền họp bàn với César đại
đế. Điều này được
thể hiện rất rõ ràng trong
những bức phù điêu nổi
tiếng về y phục La Mã (năm 113
trước công nguyên) của binh đoàn
Trajan.
Thời
Trung cổ, những người nô
lệ và người lùn đừng bao
mơ tưởng đến những
chiếc khăn. Người ta không
biết nguyên nhân tại sao những người
lùn lại bí đối xử kinh
bỉ như vậy, nhưng có một
giả thuyết cho rằng người
xưa coi những người lùn là
những kẻ độc ác như
quỷ sa tăng, xấu xí và đần
độn nên không được
quyền đeo khăn quàng cổ,
một vật trang sức cao quý. Cho mãi
đến tận những năm 60
của thế kỷ 20, người Châu
Âu vẫn cho rằng cà vạt không
phải là trang sức dành cho người
lùn. Ngay cả đến người
Trung Quốc cũng có một câu
rất mỉa mai, đầy khinh khi
về người lùn là “"oải
nhân khán trưòng" (người lùn
xem hát - chả biết trên sân khấu
có gì, chỉ nghe người ta kể
lại”. Có thể vì hình dáng của
người lùn đã làm xấu đi
những chiếc khăn lụa nên
mới có sự coi rẻ như
vậy? Hay bởi “nền văn minh
trang điểm” đã quá coi trọng
cái dải lụa bé nhỏ đó? Ngay
cả tôn giáo cũng nhờ những
chiếc khăn dài quá vai hoặc dài
quấn quanh vai để chứng
tỏ quyền uy của giới tu sĩ,
giám mục, giáo sĩ.
Ngay
đến các nhà sư Tây Tạng
một thời cũng có
"cravater" hẳn hoi, y như
nhiều tu sĩ của cực lục
địa. Với người Tây
Tạng, vào dịp hôn lễ, chỉ có
các nhà sư hay pháp sư mới có
quyền đeo kata (dải lụa hay
dải vải) quanh cổ.
Hay
Trung hoa Lục địa?
Thế
nhưng, vào đến năm 1974,
nhiều nhà sử học Tây Âu đã
phải giật mình nhìn nhận lại
giả thuyết của mình khi ngôi
mộ Tần Thủy Hoàng được
khám phá một cách tình cờ bởi
một số công nhân Trung Quốc.
Nhờ khám phá này, chính các học
giả uyên bác Trung Quốc mới
hiểu ra rằng còn lắm chuyện
kỳ lạ ngày xưa, trong đó có
"cà vạt" của binh lính.
Khoảng 7.500 tượng binh lính
bằng đất nung được
dựng quanh lăng mộ đều
được quàng quanh cổ một
khăn lụa được thắt nơ
cẩn thận. Và các sử gia phương
Tây đều nhất loạt công
nhận rằng loại nơ lụa này
hao hao giống như loại cà vạt
của cựu lục địa khi xưa,
và rõ ràng nó xứng đáng là một
vật trang sức.
Những
pho tượng này có niên đại
khoảng năm 221 trước Công nguyên.
Và giới sử gia Trung Quốc đã
rất hào hứng khi lật ngược
lại vấn đề là: Phải chăng
Trung Quốc mới đích thực là
quê hương của cà vạt? Không
một nhà sử học nào trên thế
giới dám khẳng định là ngoài
đời binh lính thời Tần có
sử dụng những chiếc khăn
lụa này như một kiểu y
phục bắt buộc không.
Ngay
cả học giả chuyên về y
phục là Sarah Bibbings cũng chưa dám
nói gì về cà vạt của Trung Hoa,
chỉ dám dè dặt cho rằng
những chiếc nơ lụa ở
Trung Quốc có thể là một trong
những "phụ tùng quanh cổ"
xa xưa nhất mà thôi.
Thế
kỷ 16 được xem như là
một cuộc cách mạng triệt
để về y phục tại Châu Âu,
và cà vạt không ngoài vòng quay đó.
Nếu như tại Pháp và Anh, giới
quý tộc đổ xô theo trường
phái mốt cổ áo thật to, viền
ren và họa tiết diêm dúa thì ở
một số quốc gia người ta
lại chuộng cổ cồn áo
thật nhỏ gọn, để tôn
bật cái cà vạt quanh cổ. Khái
niệm “tông xẹt tông” (phối màu
hòa hợp trong trang phục) hồi
đó chưa có nên nên người ta
chọn những màu chọi nhau như nước
với lửa, chẳng hạn cổ áo
xanh lè đi với cà vạt đỏ
choé.
Lịch
sử đích thực hay sự lóa
mắt của ông vua sành điệu?
Vào
khoảng năm 1635, khoảng 6 nghìn lính
và kỵ binh đã đến Paris để
hộ tống vua Louis XIV và giáo chủ
Richelieu, trong số đó có một
số lượng lớn lính đánh
thuê người Croat. Trang phục
truyền thống của những người
Croat này đã khuấy động
sự quan tâm của mọi người
trước những chiếc khăn
rất đẹp và lạ quấn quanh
cổ họ.
Những
chiếc khăn này được làm
bằng nhiều loại vải khác
nhau, phân chia theo thứ bậc, từ
những chất liệu vải thông thường
dành cho người lính đến
chất liệu cotton đẹp và
lụa dành cho giới sỹ quan. Người
Pháp luôn nhanh nhạy với thời
trang đã ngay lập tức bắt chước
theo kiểu dáng này, một kiểu dáng
cực kỳ mới mẻ đối
với các nước Châu Âu. Với
những sỹ quan dũng cảm người
Pháp đã kinh qua 30 năm chiến tranh
thì sự tiện lợi của
những chiếc khăn của người
Croat là ở chỗ nó khá là thực
dụng.
Trái
ngược lại với những
chiếc cổ cồn thắt nơ
phải luôn luôn giữ màu trắng
sạch thật cẩn thận,
chiếc khăn kiểu này rất
đơn giản, chỉ cần quàng
lỏng lẻo vòng quanh cổ mà
chẳng cần bất cứ sự chăm
sóc nào thêm. Nó cũng thanh lịch
tựa như một chiếc cổ
cồn cao, được hồ
cứng, nhưng lại nhẹ nhàng và
dễ dàng hơn khi sử dụng mà
vẫn tạo được dáng đẹp
bên dưới những bộ tóc dài và
dầy của những người lính.
Cuộc
tranh cãi bất tận: Cravat bắt
nguồn từ đâu?
Vào
những năm 1650, trong suốt giai
đoạn trị vì của vua Louis XIV,
chiếc khăn của người Croat
đã được chấp nhận
ở Pháp, tại triều đình, nơi
mà bộ trang phục của người
lính đã nhận được
sự ngưỡng mộ của
rất nhiều người . Thành
ngữ thời trang , ’a la croate’ ngay
lập tức trở thành một
từ tiếng Pháp mới, và nó
vẫn còn tồn tại đến ngày
nay “la cravate”. Rất nhiều nhà nghiên
cứu đã cho rằng tiếng Pháp
cho khăn, cà vạt là một cách nói
lái từ từ “Croat”. Nhưng
một số nguồn tư liệu khác
lại nói rằng nguồn gốc
của từ cravat là từ một
tiếng thổ nhi kỳ “kyrabacs”
hoặc tiếng Hungari “korbacs” cả
hai đều có nghĩa là “roi da”
hoặc “một vật mỏng, dài”
hay tiếng “Krawatte” của người
Đức, “Corbata” của người
“Tây Ban Nha”, hay “Gravata” của người
Ý và “Kravatt “ của người
Thụy Điển.
Các
nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra
rằng cái từ Cravat đã có ở
Pháp trước khi những người
Croat đến. Học giả Eustache
Deschamps đã dùng chữ Cravate từ
thế kỷ 14, 15 rồi. Xa hơn
nữa, nhà điêu khắc Cesare Vecellio
đã viết hẳn một quyển sách,
trong đó có nhắc chữ cravatta
để chỉ những binh sĩ La Mã
thắt nơ quanh cổ. Nhiều nhà
nghiên cứu còn đưa ra giả
thiết là “Cravat” là từ biến
tấu của từ “rabats” tiếng
Pháp có nghĩa là cái cổ cồn treo.
Dù
người ta có tranh cãi về cái tên
đến đâu đi nữa, thì có
một điều hết sức
chắc chắn là: triều đình Pháp
thanh lịch và các quân nhân Pháp đã
bắt chước những người
Croat. Những người lính thường
thì bắt đầu trang trí cổ
bằng một dải đây buộc,
trong khi sỹ quan thì dùng lụa
hoặc muslin có những đường
thêu tinh tế. Ngay những người
nghèo cũng đeo những chiếc cà
vạt bằng vải cotton, thỉnh
thoảng lại có viền bằng
vải taffeta màu đen. Đến
thế kỷ 17, cà vạt chính thức
được Châu Âu xem như phụ
tùng cho lễ phục.
 |
Thời
Phục Hưng được xem như
giai đoạn khai sinh cho chiếc cà
vạt hiện đại, trong khuôn
khổ làm dáng quá sức để
biểu thị giàu sang. Đàn ông
thời Phục Hưng thường
khệnh khạng, chải chuối thành
ra cà vạt lại chễm chệ trên
cổ họ, Với mong muốn rách
"cả Châu Âu phải quay về
điện Versailles mà trầm
trồ", Vua Louis và đám cận
thần đã vắt óc nghĩ ra
những cà vạt kỳ khôi nhất,
cầu kỳ nhất với chi phí
gần bằng thu nhập cả năm
ròng của một người nông dân.
Tuy nhiên, qua sự sàng lọc của
thời gian, chỉ còn những
chiếc cà vạt phù hợp nhất
với y phục tồn tại
được, còn những cái khác rơi
ngay vào quên lãng. Nước Pháp đã
có cà vạt riêng của mình.
Cà
vạt đến nước Anh
Trở
về từ cuộc lưu đày
biệt xứ, vua Chales II của Anh
đem theo trong hành lý một mớ cà
vạt kiểu Louis 14. Chính ngài du
nhập mốt thắt cà vạt vào
xứ sở sương mù, gây nên
những cuộc tranh cãi toé lửa.
Những người thủ cựu thì
khăng khăng với ý kiến cho
rằng không nên đề cao văn hóa
Pháp vì chỉ có văn hóa Anh mới là
thượng đẳng. Nhưng sau
đó họ không thể không nhận
thấy cà vạt đã góp phần
tạo thêm vẻ sang trọng cho đàn
ông, miễn là biết cách phối
hợp màu sắc và biết cách đeo.
Tuy
nhiên những chiếc cà vạt của
Chales II đắt đến mức khó
tưởng tượng nổI, mỗI
chiếc có giá đến trên 5 lần
thu nhập bình quân của một ngườI
dân thường. Horace Walpole là một
trong những người cấp
tiến nhất và tung hô cà vạt
nhất, đã tổ chức một
buổi dạ tiệc toàn thực khách
Pháp. Ông cũng đeo một cái cà
vạt cho hợp gu, nhưng ông bạn
thân thiết của ông là Grinling Gibbons
thì lại dè bỉu đến độ
đeo một cà vạt bằng gỗ
để chơi khăm bạn. Thế
nhưng thực khách Pháp lại rất
khó chịu với Gibbons và đồng
loạt tẩy chay nhân vật này
khiến Gibbons đành phải hậm
hực ra về.
Nỗi
thống khổ của những kẻ
chạy theo cà vạt
Tuy
nhiên bắt đầu từ thời
điểm này thì theo như đại
Thi hào Voltaire “cái sự thắt cà
vạt là cả một khổ hình cho
đấng mày râu, vì nó nhiêu khê và
phiền phức quá thể”.
Nếu như các quan lại ở Trung
Hoa, sáng sớm phải lo chuẩn
bị cân đai áo mão để vào
chầu thiên tử thì giới quý
tộc Châu Âu lại phát sốt lên vì
nơ cà vạt. Nơ cà vạt
kiểu Steinkerque là loại nơ dành
cho lớp trung lưu, cả phụ
nữ. Thành thử, một tiêu
chuẩn của người vợ
tốt thời đó là phải
biết thắt nơ cà vạt bởi
không phải ông chồng nào cũng có
người hầu thắt nơ hộ
mỗi ngày được.
Cà
vạt một thời có cả lỗ,
để người ta dắt đuôi
nó vào một cái cúc áo cho đỡ vướng.
Nhiều quý ông đến khốn
nhổ vì cà vạt chấm vào tô súp
hay vướng phải lọ muối,
lọ đường vừa bất
lịch sự, vừa xấu hổ vì
vụng về và luộm thuộm. Sau này,
cà vạt có lỗ được thay
bằng kiểu nhét đuôi vào khe
hở giữa hai khuy áo. Bắc Mỹ là
một trong những nơi chán kiểu
nơ nút quý tộc nhất, nên ra
sức giản lược, chỉ
một lần thắt duy nhất thay vì
xỏ qua xoắn lại. Có thể không
đẹp, nhưng đỡ tiêu
tốn thời gian vô ích. Là những
kẻ khơi mào cho chuyện đeo cà
vạt nhưng giới quân nhân lại
nhanh chóng trở nên chán ghét việc
phải đeo cà vạt này nhiều
nhất. Nếu chỉ đơn
giản, nhẹ nhàng như chiếc khăn
của người Croat thì chẳng nói
làm gì, đằng này nó đã trải
qua bàn tay “sáng tạo” của quá
nhiều người nên đến
giờ nó vừa vô tích sự lại
rất vướng víu, xoay trở khó
khăn, rất bất tiện khi ra
chiến trường. Vì vây một
số binh sĩ Pháp tự ý tẩy chay
cà vạt nhưng chỉ vài ngay sau
đã bị trừng phạt thẳng cánh
khiến mọi việc đâu lại
hoàn đấy. Rồi chính giới sĩ
quan trong lúc nhàn hạ lại
“thiết kế” thêm một kiểu
hành xác mới: cổ cồn dựng
đứng và kẹp yếu hầu như
gông cùm. Nhưng cũng phải công
nhận rằng loại cổ áo này giúp
cà vạt đẹp hẳn lên, sang
trọng nhưng vẫn rất dũng mãnh.
Thế nhưng, một vài kẻ
rỗi hơi lại gắn thêm lông
bờm ngựa cho sang, thể hiện
bản lĩnh người lính hơn,
kiến cái cổ của nhiều quý ông
trở nên kỳ dị khó tả
được.
Rồi
lại một sai lầm lớn khi người
ta chế ra loại cổ cồn
luồn kim loại cho đẹp. Và
kết quả là tỷ lệ quân nhân
bị thương ở cổ tăng lên
đột biến đặc biệt
khi giáp lá cà. Cuối cùng các nhà
thiết kế cũng đã cải
tiến cà vạt, nhưng chỉ
mềm hơn, còn dài và rắc rối
thì vẫn như cũ, thậm chí dài
hơn. Có những cà vạt bằng
mousseline dài đến 2 mét, quấn
quanh cổ cả mấy vòng, và
cuối cùng thắt thành một cái nơ
to đùng trước ngực. Nhưng
điều phi lý nhất đã diễn
ra giữa hai phe cà vạt đen và cà
vạt trắng. Lớp thanh niên thích
thắt cà vạt đen, còn các bậc
lão thành lại chỉ dùng cà vạt
trắng. Cuộc chiến này kéo dài
đến tận thế kỷ 19.
Lớp trẻ cho rằng cà vạt
đen mới là sự cấp tiến,
còn cà vạt trắng chỉ là trò
cổ hủ, trong khi lớp già lại
rất bực mình với những
chiếc cà vạt đen và cho rằng
như thế là đi ngược
lại với lề thói cũ.
Đầu
thế kỷ 19, nước Anh đã có
bộ veston đầu tiên gồm áo
đuôi tôm đen, quần dài, áo gilet và
sơ mi, cà vạt. Và lúc này cà vạt
rất được trọng vọng
đến mức, các quý ông phải
thắt đến 3 loại cà vạt
khác nhau mới đúng điệu
Thời kỳ mà “thịnh vượng
nhất” của cà vạt ở Anh là
vào giữa thế kỷ 19, khi mỗi
ngày, người ta phải thắt
đến 3 cà vạt thì mới
được coi là "đúng điệu".
Chưa hết, riêng cái nơ cho cà
vạt đã "làm tình làm
tội" người ta không ít: nó
phải được làm bằng tơ
lụa cực mềm và nhẹ, không
phải đơn giản như ngày
nay. Tóm lại, mặc dù chỉ là
một” phụ kiện” cho quần áo
nhưng bản thân cà vạt cũng có
"phụ kiện" cho riêng nó.
Và
chẳng bao lâu sau, cũng như mắt
kính, cái cà vạt trở thành vật
không thể thiếu của giới trí
thức. Thời này, cà vạt có đến
tận 16 kiểu thắt, điều
đó đủ cho thấy độ
“đỏm dáng” của các quý ông.
Ở Pháp, văn hào Balzac có một ông
bạn thân mang tên Emile Marc de Saint Hilaire,
chính ông này đã viết hẳn
một tácp phẩm viết về các
kiểu thắt nơ chỉnh nút và
thật buồn cười là chính
Balzac lại là người viết
lời bạt của cuốn sách đó.
Trong đó, có đoạn "Cà
vạt không chỉ là một biện pháp
phòng chống cảm cúm, ho hen, dị
ứng, đau răng (?) mà còn là
một kiểu trang điểm thanh
lịch, nói lên trình độ của
người sử dụng, cho ta
biết rõ đâu là con người
thực tài, đâu là kẻ giả danh
trí thức. Bản thân tôi từng
bị cà vạt đánh lừa và
phải tỏ ra rất cẩn thận
khi xét người qua cà vạt...".
Thi hào Byron bị mang tiếng là phát
minh ra kiểu nơ con bướm, nhưng
trong thực tế, ông chẳng liên quan
gì đến cà vạt cả. Trong
giới văn nghệ sĩ, nhiều người
đã quyết tâm không vất vả vì
cà vạt làm gì cho mệt mà để
cổ được nhẹ nhõm, mát
mẻ. Ngược lại, ông Thomas
Lipton, ông tổ của danh trà Lipton ngày
nay, lại hết sức mê thích nơ
cà vạt, nên đã cho ra nhiều
kiểu nơ con bướm.
Cà
vạt 3 mảnh, sự khởi
nguồn của cà vạt hiện đại?
Thời
kỳ trước chiến tranh thế
giới lần thứ nhất, cà
vạt vẫn to như một chiếc
tạp dề, che gần kín cả
ngực, nên những ông chiều cao khiêm
tốn không dám đeo nó, vì e làm trò
cho thiên hạ. Kiểu nơ Ascot ra
đời, được xem là
đơn giản nhất và thuận
lợi nhất, bởi nó sử
dụng cây kim kẹp chứ không
phải thắt nút nhiều lần cho
mệt. Thời đó, nhiều gã “đỏm
dáng” còn đính cả ngọc trai,
đá quý hoặc sang hơn là những
viên kim cương lấp lánh lên cà
vạt. Nhưng sau chiến tranh thế
giới lần I, một phần do
chế độ phân phối hà
khắc, một phần do những
chiếc cà vạt này rất dễ nhàu
nát, xoắn lại, vừa mất
thẩm mỹ vừa mất công là
ủi nhiều lần, nên các quý ông
đã chuyển sang kiểu cà vạt 3
mảnh vừa dễ thắt, giữ
được hình dạng nguyên
thủy mà lại chắc chắn và
đẹp hơn. Kiểu cà vạt
với được một chủ
tiệm cà vạt ở New York - ông Jesse
Langsdort thiết kế nên. Nhờ
thiết kế này Jesse đã trở nên
nổi tiếng và thu được
“bộn” tiền. Cả thế
giới dùng cà vạt 3 mảnh thay cho cà
vạt một mảnh ngày xưa. Vào
cuối thập kỷ 60 và đầu
thập kỷ 70 của thế kỷ
20, những chiếc cà vạt đã
rộng tới 5 inch. Vào thời điểm
đó, nó rất phù hợp với
cổ áo jacket rộng hơn và
chiếc cổ cồn cao hơn của
áo sơ mi.
Cũng
giống như quần áo của đàn
ông cần phù hợp với cơ
thể của họ, chiếc cà
vạt cũng cần tạo nên sự
cân bằng. Mặc dù rất nhiều
chiếc cà vạt ngày nay không còn
rộng như thế nhưng nơi mà
nút thắt được tạo nên
vẫn duy trì được độ
dày. ĐIều này làm cho việc
thắt những chiếc nút nhỏ,
lịch sự trở nên khó khăn hơn.
Mối liên hệ giữa những nút
thắt với những chiếc cổ
cồn của áo sơ mi cũng
được coi là một điều
hết sức quan trọng, có nghĩa là
nó không được quá to để
che hết chiếc cổ áo và cũng
không nên quá nhỏ để bị chìm
lấp so với cổ cồn của áo.
Những chiếc cà vạt thường
có độ dài tiêu chuẩn từ 52
– 58 inch. Những người cao hơn,
hoặc những người thắt nút
theo kiểu Windsor có thể dùng loại
cà vạt dài hơn nhưng phải
đặt. Sau khi thắt cà vạt,
đuôi cà vạt phải dủ dài
xuống đến vùng đai của
quần dài. Đuôi của cà vạt
hoặc là phải cân bằng hoặc là
phải nhỏ hơn đối với
những người thấp).
Đến
nay, cà vạt đã đi sâu vào
chuyện ngôn ngữ, như người
Pháp có thành ngữ "giấu mặt
sau cà vạt" để chỉ
những người ăn tham uống
tục,chỉ biết cắm mặt mà
ăn. Cà vạt còn được coi
như một phương tiện để
đánh giá con người, thế nên
mới có câu "Hãy cho tôi biết anh
thắt cà vạt gì, tôi sẽ cho anh
biết anh là ai", câu này có ý nghĩa
hệt như "ngưu tầm ngưu,
mã tầm mã" hay “tớ nào,
chủ đó” vậy.
Dù
rằng ngày nay vẫn có những
nghệ sĩ làm nổi bật mình
nhờ những kiểu thắt cà
vạt “không giống ai” nhưng nhìn
chung yêu cầu quan trọng nhất
của cà vạt là phải “hòa
hợp” với quần áo. Và cà
vạt mãi mãi sẽ là đề tài
bất tận cho nhiều nhà thiết
kế, ghi dấu ấn về sự
lịch lãm, sang trọng và “gu” ăn
mặc của một người đàn
ông.
|