|
Giáo sĩ Đắc Lộ
(1593-1660) và Lịch sử nước Việt Nam
Nhận định tổng quát Để hiểu biết đất
nước ta, th́ chúng ta có những bộ sử
như Đại Việt Sử Kí Toàn Thư,
Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Đại
Nam Thực Lục. Những bộ sử rất có
giá trị này đều là những sách biên niên
của triều đ́nh, ghi lại tất cả
những sự việc vua chúa làm. Nhưng
lịch sử không phải là lịch sử các
vua mà c̣n bao gồm các sinh hoạt kinh tế, văn
hóa, phong tục và đời sống thường
ngày của dân gian. V́ thế để bổ túc,
có thể có những tài liệu khác như gia
phả các ḍng họ lớn, những kí sự, tùy
bút của người đồng thời,
những bài hay sách tường thuật như hành
tŕnh và lưu trú của những người
ngoại quốc đến xứ ta, như Sứ
giao châu thi tập của Trần Lương Trung
nhà Nguyên mà Lê Quí Đôn có nói tới trong
Kiến văn Tiểu Lục (Hà nội trang 68),
như Annam Tức Sự của Trần Phú tả
lại điện đài của nhà Trần
ở Thăng Long (Nguyễn Khắc Ngữ, Mỹ
thuật cổ truyền Việt Nam, trang 145,
Mỹ thuật thời Trần, Hà nội 1977,
trang 13), như Sứ Giao Kỉ Sự và Lược
Biên của viên sứ thần nhà Thanh và một
viên quan nước ta dự đám tiếp đón,
tường thuật tỉ mỉ về việc
sứ thần Trung quốc tới sắc phong cho
vua Lê năm 1682 (Hoàng Xuân Hăn, Cuộc tiếp
sứ Thanh năm 1683, trong T.S.K.H.X.H. Paris 1977 trang
5...). Ngoài ra cuốn Chỉ nam ngọc âm giải
nghĩa, cuối thế kỉ 17 cũng cho chúng ta
biết về nhiều chi tiết trong đời
sống văn hóa, xă hội và kinh tế vào
thời ḱ này. Riêng về những sách người
Âu châu viết về xứ ta, đặc biệt
các nhà buôn và nhà truyền giáo, th́ phải
kể Marco Polo + 1324 (thực ra ông này có tới
Chiêm Thành, chứ không đến nước ta),
Ordonez de Cevallos người Tây Ban Nha, thế
kỉ 16, rồi tới thế kỉ 17 th́ có các
giáo sĩ Ḍng Tên. Những tài liệu hiện nay
chúng ta được biết th́ có Tường
Tŕnh của Gaspar Luis (1621), của Baldinotti (1626),
của cha Borri (1631), rồi tới Đắc
Lộ. Thực ra, Đắc Lộ là người
đă để lại nhiều tác phẩm hơn
cả, lại thuộc nhiều loại khác nhau,
như chúng ta đă thấy. Nhưng Đắc Lộ không
phải là người đầu tiên viết
về nước ta, trước ông phải
kể đến Borri tới Đàng Trong năm
1618, và bỏ về Macao và Âu châu năm 1622. Nhưng
năm 1621 ông đă viết một cuốn Tường
Tŕnh về Đàng Trong rất đặc sắc.
Sách gồm hai phần: phần 1 về t́nh h́nh
đời và phần 2 về t́nh h́nh đạo.
Khi Đắc Lộ viết Lịch Sử Đàng
Ngoài th́ ông cũng nói về t́nh h́nh đời
ở phần 1, và t́nh h́nh đạo ở
phần 2. Cả hai phần đều phong phú và
chứa nhiều chi tiết cho ta biết thêm
về con người và Đất Nước
Việt Nam vào thế kỉ 17. Chúng tôi không thể bàn giải
về hết những điều Đắc
Lộ viết về con người và Đất
Nước Việt Nam, bởi v́ thời giờ
không cho phép và chất liệu quá dồi dào. Riêng
về Đàng Ngoài, nếu chỉ đưa
mắt xem mục lục phần 1 của cuốn
sách th́ đă thấy như sau: danh hiệu và
vị trí, về quyền hành chúa Trịnh,
lực lượng, thuyền chiến, số binh
lính, các nguồn lợi, cách trả lương
quân sĩ, kỉ luật quân binh, hành chính trong nước,
thi Hương thi Hội, h́nh luật, thổ
sản, súc vật, hàng hóa và thương
mại, tiền bạc trao đổi troig
niớn,bncữtgam ổí rdn oưnc hhnn iêot nx
dị đoan, Khổng giáo, Phật giáo và Lăoeốg
áàng mă, giỗ chạp, gọi hồn, ngày khánh
đản của nhà chúa, nghi thức cưới
hỏi, Tết Nguyên Đán, về cung giọng và
các dấu trong tiếng nói, về cách gọi tên
trong gia đ́nh. Có nhiều học hỏi đối
với người đồng thời, thí dụ
người ta được biết Đàng Ngoài
ở vào vĩ tuyến 17 tới 23, Đàng Trong
từ 12 tới 17 và toàn cơi từ 12 tới 23. Và
trong khi những C. Colomb, Vasco de Gama, Magellan đă
đi ṿng quanh thế giới và vẽ địa
đồ th́ Con Trời vẫn c̣n tin trời tṛn
đất vuông - thiên viên địa phương
- và vẽ nước ḿnh lớn lao ở
giữa và thiên hạ bé nhỏ bao chung quanh - Trung
quốc. Cuốn Hành Tŕnh có hai bài độc
đáo, một nói về tục uống trà tàu và
một về thuốc dân tộc: Đắc
Lộ rất thích uống trà nhất là khi
thức khuya để giải tội. Khi đau
yếu ông ưa dùng thuốc nam hiệu nghiệm
hơn thuốc tây. I. Lực lượng thuyền
chiến Trước hết chúng tôi
thấy bốn điều cần phải nói trước
đă. Một là nước ta có rất nhiều
sông ng̣i. Có những con sông lớn ở Đàng
Ngoài như sông Hồng và nhiều sông trung b́nh.
Nếu đem sông Seine và sông Marne mà so sánh th́ hai
con sông của Pháp này chỉ là những con sông
thuộc cỡ bé nhất của chúng ta mà thôi.
Thứ hai là nước ta có một bờ
biển dài, hăy tạm nói là từ 1500 tới
2000 kilomét. Thứ ba, mạng lưới cầu
đường của ta vào thế kỉ 17 này c̣n
rất lạc hậu, hầu như không có,
nếu phải đi từ Đàng Ngoài vào Đàng
Trong theo con đường cái quan. Trong khi đó
ở Lamă từ những thế kỉ thứ
nhất trước sau công nguyên, họ đă có
một kĩ thuật lát đường quan
lộ rất tinh xảo kể từ thủ đô
Roma cho tới các nước thuộc địa
Pháp và Anh. Thứ bốn chúng ta vẫn chưa
biết chế biến xe cộ dùng vào việc
chuyên chở tư cũng như công, trong khi
ở Âu châu, nhất là từ thời người
Roma cổ, người ta đă có những xe chuyên
chở hai ngựa, bốn ngựa chạy trên
những đường trường rộng
lớn. Vào năm 1660, Marini, người nói
thật nói thẳng đă phải lên tiếng:
xứ này không có xe carrosse! như vậy trên
đường bộ người ta đi cáng,
đi kiệu, đi ngựa (thực ra cũng
rất hiếm, ngựa để cưỡi làm
cảnh, cho các ông nghè vinh qui, các quan đi kinh lí).
Có nói đến xe th́ hẳn chỉ như xe
lợn, xe cút kít bánh gỗ, đi rất chậm
hoặc voi kéo lững thững mà thôi. Cho nên
đường thủy kể là đường
duy nhất để di chuyển và chuyên chở.
Cầu lớn không thể có th́ có đ̣ ngang, chèo
một tay hay hai tay. Và cũng v́ thế, lực lượng
thuyền chiến của Trịnh Tráng cũng như
của Nguyễn Phúc Nguyên vào thời ḱ này khá
quan trọng. Trước hết, cũng như
Baldinotti, Borri, Đắc Lộ nhận thấy
thuyền của ta, nhất là của nhà chúa,
được sơn quét huy hoàng, sơn son
thiếp vàng. So với thuyền ở Âu châu, th́
thấy có khác. Pḥng chỉ huy của ta đặt
ngay đầu thuyền chứ không ở cuối
như ở Âu châu. Người Việt Nam, chèo
ngồi hay đứng, đẩy về đàng
trước, chứ không kéo về phía sau. C̣n khi
chèo chung th́ có tiếng sênh làm nhịp (ở Âu
châu là tiếng c̣i). Người chèo các
thuyền chiến đều là những binh lính t́nh
nguyện hay chiêu mộ, chứ không phải là
những người khổ sai bị phạt
đi chèo thuyền. Đắc Lộ viết:
"Thuyền th́ dài và thấp như thuyền
của ta và nhiều khi có tới 30, 35 hay 40 tay chèo.
Tay chèo th́ nhẹ hơn bởi gỗ nhẹ, cho
nên chỉ một hay hai người đủ
để cầm chèo". Về số thuyền chiến,
Đắc Lộ cho rằng chúa Đàng Trong có
tới ít ra 200, c̣n chúa Đàng Ngoài v́ đất
đai rộng lớn hơn, nên có tới gấp
ba, nghĩa là từ 500 tới 600. Về kích thước,
vũ khí th́ ở hai nơi đều trang bị
như nhau. Cửa sông ra biển th́ ít nhất cũng
có tới 50. Đàng Trong, các thuyền chiến thường
đậu ở ba cửa biển lớn là Đà
Nẵng (Hội An), Qui Nhơn và Phú Yên, gần
ranh giới Chàm. Đắc Lộ c̣n viết:
"Người Ḥa Lan nghiệm thấy rằng
đoàn thuyền chiến ấy có thể
thắng nổi đoàn tàu lớn của ḿnh, tuy
họ tự coi ḿnh là chúa biển". Khi Đắc Lộ viết trong
Lịch Sử Đàng Ngoài về lực lượng
thuyền chiến của Đàng Ngoài th́ ở Âu
châu người ta hoài nghi. Do đó trong Hành Tŕnh
và Truyền Giáo, ông minh chứng: "Tôi không
hối, khi nói lên những ǵ tôi thấy. Tôi
đă một lần đếm đủ 400 trong
đạo binh của chúa Đàng Ngoài, tất
cả đầy đủ trang bị, có thể
không rộng dài hơn thuyền chiếy không lâu
đây, kôi trở về, ở cửa b
về,nữ giáo dân cũ, nên nhà thờ của
iển thành Gênova và thành Marseille". Khi Đắc Lộ tới Đàng
Ngoài th́ đă gặp đoàn thuyền Trịnh
Tráng đưa đi đánh Nguyễn Phúc Nguyên.
Đó là năm 1627. Đắc Lộ cho biết:
ông đă thấy 100 chiếc đi đầu hay
tiền quân, ở giữa đoàn này là
thuyền của chúa, c̣n theo sau hay hậu quân
gồm có hậu cần và thuyền chở các
cung phi mĩ nữ cùng tải thóc gạo, lương
khô cho binh sĩ, tất cả có chừng 500. Về thao diễn và biểu
diễn, Đắc Lộ cũng được
dự và rất phục tài ba của thủy quân
khéo lượn ṿng, đều đặn, ngay hàng
thẳng lối, mấy chục tay chèo như
một. Dẫu sao những loại thuyền
chiến này thường là những thuyền
đi trên sông lớn sông nhỏ và có thể
đi biển với một vài điều
kiện, chứ không phải những thuyền buôn
vĩ đại như những chiếc C. Colomb,
Magellan hay Vasco de Gama dùng để đi ṿng quanh
thế giới. Khi Đắc Lộ nói đă
thấy những thuyền Âu châu đậu trong
bến Gênova hay bến Marseille th́ phải chăng
đó mới chỉ là những thuyền nhỏ.
Chứ thực ra vào thời này những hạm
đội thủy chiến của những
cộng ḥa nhỏ như Gênova, Vênêzia, đă
gồm có những thuyền tàu có thể vượt
trùng dương rồi, hoặc ít nữa đi
trên Địa Trung Hải mênh mông. Thực ra,
trong một chương Lịch Sử Đàng Ngoài,
Đắc Lộ đă phê phán rất xác đáng
về các thuyền chiến của chúng ta, khi ông
nói về ngành hàng hải của chúng ta như
sau: "Người Đàng Ngoài không
đi buôn bán ở các nước ngoài v́ ba lí do
chính này. Thứ nhất, họ không biết
nghệ thuật địa bàn và nghề hàng
hải, không bao giờ xa biển hay dăy núi
của họ. Thứ hai, thuyền của họ
không đủ sức chống chọi sóng
lớn biển cả và những cơn băo
lớn thường nổi lên trong cuộc hành tŕnh
lâu dài; ván và gỗ không được gh́
chặt và đóng đinh đóng chốt, nhưng
chỉ được cột lại, nên mỗi năm
mỗi phải làm lại. Và thứ ba, chúa không
cho phép họ ra nước ngoài, nơi ngành thương
mại bắt thương gia phải qua lại, v́
sợ mất thhếqtaâl ià ćng âm thtiun phcho chúa". V́ thế thuyền chiến
chỉ đi trên sông và chạy ven biển,
chứ không ra ngoài khơi xa hoặc vượt
trùng dương. Đắc Lộ đă di
chuyển nhiều lần trên các sông ng̣i này, sông
Hồng, sông Đáy. Ông đă lấy thuyền
đi đi về về từ Thuận Hóa vào
Đà Nẵng (Hội An), tránh đèo Hải Vân
hiểm trở, ông đă lấy thuyền đi
từ Hội An đến Qui Nhơn, từ Qui Nhơn
tới Phú Yên. Tất cả đều là
những lộ tŕnh các đoàn thuyền chiến
xử dụng, nhưng tuyệt nhiên không thấy
nói tới lộ tŕnh đi Macao, Nhật hay Phi
Luật Tân. Tuy nhiên, thời chúa Nguyễn Phúc
Nguyên đă có những chiến thuyền chở
sứ thần đi Campuchia. II. Hai biến cố lịch sử
quan trọng Biến cố thứ nhất là
cuộc bại trận của Trịnh Tráng năm
1627 khi ông đưa quân vào đánh Nguyễn Phúc
Nguyên. Sử Kí toàn thư không nói nhiều.
"Tháng 2, Thanh đô vương hộ vệ thánh
giá đi đánh, quân đến cửa biển
Nhật Lệ, giặc cậy là biển, cố
chống lại, đại quân mấy lần giao
chiến không lợi, bèn trở về". Cương
mục và Thực lục viết dài hơn và tương
tự như nhau, cho biết: hai bên đối
diện, quân Nguyễn dùng đại bác bắn làm
quân Trịnh rút lui, và nhân có nước thủy
triều lên, bên Nguyễn lại cho nổ súng.
Trong khi bên Trịnh bắt đầu rối
loạn th́ quân Nguyễn phao tin là ở Bắc Hà,
Trịnh Gia và Trịnh Nhạc sắp nổi
loạn. Do đó Trịnh Tráng trở nên nghi
ngờ, lại mấy trận thua liền, nên cho
quân rút lui. Như vậy cuộc bại
trận này, theo sử nhà Nguyễn, là do mấy
sự việc chính yếu: Nguyễn Phúc Nguyên có
hỏa lực trổi vượt hơn là
một, nhờ nước thủy triều hay
lợi dụng nước thủy triều để
tấn công là hai và dùng phản tuyên truyền gây
nghi ngờ nơi địch là ba. Quân Nguyễn c̣n
đưa tượng binh ra chống đánh.
Đắc Lộ cho biết thêm: Trịnh Tráng
mộ quân quá nhiều, số lương thực
đem theo tưởng đủ để nuôi quân,
nhưng v́ sức cầm cự bên địch
rất vững, nên cuộc chiến phải kéo dài.
Nếu Trịnh Tráng c̣n ngoan cố giữ quân
chiến đấu lâu th́ e không c̣n lương
thực nuôi quân. C̣n về nước thủy
triều th́ Đắc Lộ cho biết quân nhà
Nguyễn đă "đóng cọc nhọn và mũi
sắt với dây chằng dưới mặt nước...".
Thế là thuyền bị mắc cạm bẫy
khi nước rút. Khi Trịnh Tráng đưa
thuyền về và gặp lại Đắc
Lộ, th́ người ta rất sợ cho giáo sĩ
sẽ bị nhà vua quở trách và hất hủi.
Đắc Lộ viết: "Lúc này không thiếu người
báo tin cho chúng tôi, cho chúng tôi nghĩ rằng chúa
Đàng Ngoài rất giận chúng tôi, v́ người
Bồ đă cung cấp vũ khí cho chúa Đàng
Trong chống lại ngài. Điều này không
đúng, tuy ban đầu có tin đồn như
vậy, do mưu kế người Đàng Trong dùng:
họ đặt trên đỉnh núi ở biên
giới một số rất nhiều h́nh nộm
mặc theq n ihuc người Blà mưu cơ vô
tội vô hha Dẫu sao, người Bồ đă
thông thương vớừ năm 1615 khi họ
đưa giáo sĩ Buzomi tới. Borri ở Đàng
Trong từ 1618 tới 1622, ông đă cho biết người
Đàng Trong đă có một số súng ống
tịch thu được ở các tàu bè bị băo
đánh dạt vào bờ biển và hàng ngày đem
ra thao diễn. Vả lại trong hơn mười
năm thông thương, Nguyễn Phúc Nguyên
hẳn đă chuẩn bị cho quân binh một
số súng ống đạn dược của người
Bồ. Trái lại Trịnh Tráng mới gặp phái
đoàn người Bồ năm 1626 với giáo sĩ
Baldinotti và lần này, năm 1627 với Đắc
Lộ. Biến cố lịch sử thứ hai là
trận chiến giữa người Ḥa Lan và
thủy quân của Nguyễn Phúc Lan năm 1644. Năm
này, năm có mặt của Đắc Lộ
ở Đàng Trong, ở cửa Eo, có đoàn tàu
người Ḥa Lan đi ngang qua, vào đúng lúc có
mặt của thủy quân ta. Thế là thế
tử cho quân ta xông đánh bất ngờ.
Thực lục viết: "Chiến thuyền trước
sau bước nhanh như bay. Giặc trông thấy
cả sợ, nhằm thẳng phía đông mà
chạy, bỏ rơi lại một chiếc
thuyền lớn. Thế tử đốc quân vây
bắt. Tướng giặc thế cùng phóng
lửa tự thiêu chết. Thế tử bèn thu quân
về". Thế tử nói đây là con
Nguyễn Phúc Lan sau này lên nối vị cha,
tức là Nguyễn Phúc Tần. Trong Lịch sử Đàng Ngoài, nhân
tiện viết về lực lượng
chiến thuyền của Đàng Ngoài và Đàng
Trong, Đắc Lộ đă thích thú kể
lại trận thủy chiến này, chúng tôi ghi
lại nguyên văn như sau: "Chúa Đàng Ngoài tấn công
chúa Đàng Trong, như tôi sẽ nói sau, ba
lần đem quân đi đánh đều
thất bại. Chúa liền cầu cứu với
thương gia người Ḥa Lan chiếm đóng
bến tàu Java Cả, gọi là Jacquetra hay Tân Ḥa
Lan. Chúa phái người đem lễ vật
tới xin cung cấp cho mấy chiếc tàu tṛn
của họ, để nhờ đó chúa
quyết định phá hủy hạm đội
người Đàng Trong. Người Ḥa Lan
nhận lời ngay v́ biết là để tấn
công chúa Đàng Trong đă công khai từ mấy
năm nay tự xưng thù địch với nước
ḿnh. Họ liền phái tới chúa
Đàng Ngoài ba chiếc tàu tṛn trang bị đầy
đủ và có mấy khẩu súng. Đoàn tàu vô
ư tới gần một hải cảng Đàng
Trong v́ bị gió đánh giạt, đúng lúc t́nh
cờ chúa đang có mặt với mấy
chiếc thuyền. Chúa nhận thấy đây là
viện trợ người Ḥa Lan gửi chúa
Đàng Ngoài để gây chiến. Cơn
giận nổi lên (như thể chúng dám táo
bạo thách thức ở biên giới), chúa
liền bàn xem có nên cho thuyền đuổi theo,
chúa hỏi ư kiến một người Ḥa Lan
mấy năm nay sống sót sau cơn băo táp và
ở lại phục vụ chúa lo việc binh
đao. Tên lính này kiêu căng và khinh thị đáp
rằng: đoàn tàu này chỉ sợ có thế
lực và thịnh nộ vũ khí của ông
Trời. Tức giận v́ thái độ hỗn xược,
chúa không thèm đáp, nhưng ra lệnh cho các
thuyền trưởng lập tức cho nhổ neo
rời bến và tấn công đoàn tàu Ḥa Lan trông
rơ ở ngoài khơi. Nhờ lúc biển lặng, chỉ
có gió nhẹ thổi, nên việc tấn công
đem lại kết quả: chỉ có chiếc tàu
nhỏ hơn cả của người Ḥa Lan
nhờ gió nhẹ thổi mà chạy thoát, c̣n
chiếc kia muốn chạy trốn đoàn
thuyền rượt theo, mất hướng đụng
phải cồn vỡ tan và ch́m dưới làn sóng.
Chiếc thứ ba lớn hơn hết, dĩ nhiên
nặng nề hơn cả, gió không đẩy
nổi, liền bị bốn chiếc thuyền
bao vây và chiếm giữ, sau khi hết sức
chống cự và bắn vô hiệu vào đoàn
thuyền rất thấp đă tới nách. Tay lái và cột buồm bị phá.
Trong cơn nguy khốn và cùng cực, liền châm
lửa vào kho thuốc súng đốt chiếc
thuyền cùng thủy thủ, tất cả
chừng hai trăm, trừ bảy người tránh
ngọn lửa nhẩy xuống biển trôi theo làn
sóng, được thuyền chiến Đàng
Trong vớt và đem tŕnh chúa ở trên bến
đang đợi đoàn tàu chiến thắng
trở về...". Đắc Lộ c̣n cho….(mất
1 đoạn)… Ḥa Lan xấc láo cùng bảy tên lính
sống sót, lại c̣n cho cắt mũi tất
cả, kể cả những người chết
đuối dạt vào bờ và gửi ra biếu
Trịnh Tráng với những lời chế
nhạo. Về phần Trịnh Tráng, ông ra
lệnh không tiếp đón chiếc tàu chạy
thoát: họ phải hướng về phương
bắc và xin đậu cùng xin lương
thực ở Trung quốc. Về trận thủy
chiến này, sử Ḥa Lan cũng có nói tới và
người ta được biết thuyền trưởng
người Ḥa Lan là Pierre Breck và ba chiếc tàu có
tên là Kievil, Nachtegaels và Wockende. C̣n về việc
Đàng Ngoài thông thương với người
Ḥa Lan, th́ Phạm Văn Sơn trong Lịch
sử Tân Biên cho biết có hai văn kiện
tức hai thư, một của Lê Thần Tông và
một của Thế Tử viết cho người
Ḥa Lan ngỏ lời xin giúp quân nhu đạn dược
để chống với thù địch xắc xược,
một thư đề ngày 22.02.1641 và một
đề năm 1641 tháng 7. (coi: Phạm Văn Sơn,
sd. q. trang 133-136). III. Một số nhân vật trong
lịch sử: Tống Thị Hoàng tử Hoàng tử Ḱ Hoàng tử Hoàng tử Khê Bà Minh Đức Vương Thái
Phi Công Chúa Ngọc Liên Công Chúa Ngọc Đỉnh Thanh Đô Vương Trịnh Tráng
Nguyễn Phúc Nguyên Nguyễn Phúc Lan 1. Tống Thị Người đầu tiên chúng tôi
nói tới ở đây là một thiếu phụ
đă gây tang tóc cho giáo đoàn và nhất là
đă nhúng tay gián tiếp hay trực tiếp vào
vụ giết ba thày giảng Anrê, Y Nhă và Vinh Sơn,
ba đồ đệ và cộng tác viên của
Đắc Lộ. Nhưng trước hết, chúng
tôi cũng phải nói là Đắc Lộ không
viết rơ tên các nhân vật ông ghi trong các trang sách,
ông chỉ viết là ông hoàng nọ ông nghè kia,
hoặc bà hoàng nọ bà chúa kia, hoặc ông
trấn thủ này ông trấn thủ nọ mà thôi.
Tên các nhân vật trọng yếu không bao giờ
được nói rơ. Do đó phải có sự t́m
ṭi, so đọ, đối chiếu với
thời gian sưu tầm và suy nghĩ, chúng ta
mới khám phá ra danh tánh và sự nghiệp, như
chúng tôi sẽ có dịp bàn giải thêm ở sau
đây. Trong Hành Tŕnh, Đắc Lộ nói
tới một buổi tranh luận, trong đó có
nhiều người chống đối lí lẽ
giáo sĩ đưa ra, nhưng giáo sĩ đă
nhờ thày Inhaxu hiểu biết vấn đề
hơn đứng ra đối đáp. Thế là
họ chịu thua. Xấu hổ, họ điên
cuồng lên. "Từ đó họ thề
sẽ hăm hại thày, và để đạt ư
định, họ nhờ một bà mà chúa coi như
vợ chúa, mặc dầu trước đây bà là
vợ người anh của chúa, điều mà
luật xứ này ngăn cấm, nhưng sắc
dục đâu có biết luật lệ là ǵ".
một chương sau, trong vụ âm mưu
bắt thày Inhaxu, Đắc Lộ lại nhắc
tới người đàn bà này. Ông viết:
"Vào tháng 7 năm 1644 quan trấn tỉnh
Quảng Nam từ phủ chúa về, đem theo
sắc lệnh không phải của chúa, v́ chúa
vẫn tỏ thịnh t́nh với tôi, nhưng
của bà chúa xưa nay vốn ghét đạo, như
tôi đă nói và nhất là bà đă thề
sẽ hăm hại Inhaxu. Ông bắt đầu
bắt giam một ông già cũng tên là Anrê,
rồi sai một toán lính đến nhà chúng tôi
để bắt Inhaxu đem giết". V́ hôm
đó Inhaxu không có mặt, nên họ đă
bắt thày giảng trẻ tuổi Anrê. Những điều Đắc
Lộ viết về người phụ nữ
nguy hiểm này th́ lại được Saccano
nhắc tới, khi ông này đến thay Đắc
Lộ truyền giáo ở Đàng Trong năm 1646.
Saccano viết: "Nhất là hoàng hậu, bà này
trước đây là vợ người anh
cả của chúa và hiện nay là như chính phi,
tuy theo luật nước bà chưa được
kể là hoàng hậu, bà vô cùng ghét Inhaxu hơn
mọi Kitô hữu khác...". Chúa nói ở đây là Nguyễn
Phúc Lan, con Nguyễn Phúc Nguyên. C̣n người anh
cả của chúa ở đây là Hoàng Tử Ḱ
(chúng tôi sẽ nói thêm sau). Ḱ được
đặt làm trấn thủ Quảng Nam năm
1614 và mất năm 1631. C̣n về người
vợ của người anh cả của chúa là
Ḱ, th́ nay góa chồng. Thực lục viết:
"Tống Phước Thông (bấy giờ làm
cai cơ) trốn về với họ Trịnh.
Đầu là con gái Phước Thông là Tống
Thị lấy hoàng tử Kỳ, sinh được
ba con trai. Phước Thông mừng cho rằng sau này
hắn được vinh hiển. Kịp khi
Kỳ mất, Phước Thông đại
thất vọng, bèn dẫn gia quyến lẻn ra
ngoài cửa Eo (hiện nay là cửa biển
Thuận An) trốn đi, duy có Tống Thị
ở lại". Thế là chúng ta đă nắm
được đầu dây để biết
về Tống Thị vợ hoàng tử Ḱ. Năm 1635 Nguyễn Phúc Lan lên
nắm chính quyền và năm 1639 Thực lục
viết: "Vợ lẽ cố Hoàng tử
Kỳ là Tống Thị vào yết kiến.
Tống Thị có vẻ xinh đẹp, khéo
ứng đối, từng nhân việc vào ra
mắt, đem t́nh trạng đau khổ kêu xin và
xâu một chuỗi (ngọc) bách hoa để dâng.
Chúa thương t́nh, cho được ra vào cung
phủ. Thị thần có người can, nhưng
chúa không nghe". Việc Tống Thị vừa
dựa vào nhan sắc vừa đánh vào sở thích
của Nguyễn Phúc Lan th́ phù hợp với
những ǵ Saccano sau này viết về ông: ông
rất thích ngọc trai, cho nên mỗi lần người
nào tới thường đem dâng ngọc trai. Có
lần ông thích ưa lên mũi hít lấy hít
để. Thế rồi năm 1648, Thực
lục viết: "Trước là Tống
Thị đă được vào chầu cung
phủ, đưa đón thỉnh thác, của
cải chất đầy như núi. Trưởng
cơ Trung mưu giết đi, Tống Thị
sợ". Và Thực lục cho biết
tiếp là Tống Thị lại ngầm
đưa ngọc trai ra Đàng Ngoài và mật báo
cho Trịnh Tráng cất quân đánh nhà Nguyễn,
sẽ có quân nội ứng. Năm 1648 Trịnh Tráng
cất quân vào đánh nhưng Nguyễn Phúc Lan có
Thế Tử thay làm tướng, đă đẩy
lui được quân Trịnh Tráng. Thế nhưng
Nguyễn Phúc Lan mất trên đường
trở về phủ. Nguyễn Phúc Tần lên ngôi và
đặt chú ruột là Hoàng tử Trung làm chưởng
cơ. Năm 1654 Thực lục cho biết: v́
thấy Tống Thị làm chuyện bậy bạ
nên Trung muốn trừ đi. Tống Thị
sợ, bèn t́m cách tư thông với Trung, và xúi
Trung đứng ra làm phản, bắt mối
với Đàng Ngoài. Việc bị bại và Trung
bị giam bị giam xuống ngục rồi
chết. Bèn giết Tống Thị, lấy
hết gia tài tán cấp cho quân dân". Đó là số phận một người
đàn bà có một không hai trong lịch sử,
một người gian dâm gieo hoang tàn trong phủ
chúa, giết hại người vô tội, năm
1644 đă cho xử tử Anrê và 1646 Inhaxu và Vinh Sơn.
Tới nay 1654, sau bao tội ác, đă bị
chết thê thảm. Như Thực lục có chép
rành rành, người vợ của anh cả nhà
chúa Nguyễn Phúc Lan chính là Tống Thị
vậy. 2. Hoàng tử Nguyễn Phúc Ḱ Trong Tường Tŕnh Gaspar Luis
viết từ Macao gửi về Roma năm 1621, có
nói tới một ông nghè ở tỉnh Quảng
Nam, ông này có cảm t́nh với đạo, nhưng
v́ có nhiều thiếp và v́ giữ chức lo
việc nghi lễ trong phủ và các đám ma chay
tang chế, nên ông không thể tin theo đạo
được. Theo từ điển th́ ông nghè
là một công chức được vào làm trong
cung điện nhà vua. Tới đời Lê,
chỉ có những người đỗ đạt
cao mới được cử vào những
chức vụ này. Do đó mới có thành ngữ
ông nghè, chưa đỗ ông nghè đă đe hàng
tổng. Và ở phủ chúa Nguyễn Đàng
Trong lúc này tuy chưa tổ chức thi hương
thi hội, nhưng người giữ chức cao
vào bậc nhất sau nhà chúa, trấn thủ
Quảng Nam cũng được gọi là ông
nghè. Borri trong Tường Tŕnh viết
năm 1621 và xuất bản năm 1631, cũng nói
tới ông nghè này. Hẳn v́ phải lo việc
soạn lịch, nên ông rất ham học hỏi
với các giáo sĩ về cách tính toán ngày
giờ có nhật thực, nguyệt thực. Đă
có lần ông theo các giáo sĩ nên đă tính
đúng giờ đúng lúc, trái với cách tính
sai của các nhà toán học thuộc phủ chúa.
V́ thế ông rất phục các giáo sĩ và c̣n
cho các nhà toán học của ông tới học các
giáo sĩ. Năm 1624 khi Đắc Lộ tới
Đàng Trong th́ đă nghe nói tới ông nghè. Hơn
nữa năm 1625 khi giáo sĩ De Pina mất trong
vụ đắm tàu ở Hội An th́ đă
xảy ra một việc vu khống làm cho
Nguyễn Phúc Nguyên bắt các giáo sĩ phải
về tất cả ở Hội An và trừng
trị giáo dân. Thế là theo lời Đắc
Lộ "chúng tôi đă t́m cách xoay trở
vấn đề, cậy nhờ con trưởng
của chúa có thịnh t́nh với chúng tôi, xin cho
chúng tôi được phép ở lại một
trăm ngày để lo đám tang cho cha De
Pina...". "Người con trưởng củũng
là "quan cai tỉnh có thịnh t́ hiáo sĩ không
là ai khác ngoài hoàng Kỳ đang làm trấn
thủ Quảng Nam. viết trong hành tŕnh vào Tt
về ông như sau: "Ông nghè giúp rất
nhiều vào việc truyền giáo này từ khi ông
tới, như chúng tôi đă nói ở chương
sáu phần hai này, khi các cha quả quyết
về nhật thực. Ông hằng công bố
khắp nơi rằng không có đạo nào
thật hơn đạo các cha rao giảng". C̣n
Đắc Lộ th́ viết: "Ông đă giúp
đỡ chúng tôi như một giáo dân tốt mà
chúng tôi có thể mong được". Nhưng năm 1631, Thực lục
viết: "Hoàng tử cả là Hữu Phủ
Chưởng phủ sự Kỳ mất. Kỳ
ở Quảng Nam, ân uy đều nổi
tiếng. Khi mất dân sĩ đều thương
tiếc. Được gia tặng Thiếu
Bảo Khánh quận công và được táng
theo lễ tước công". Như vậy
cả sử đời, cả sử đạo
đều nhận thấy ông nghè là một người
có nhân có nghĩa, lo cho sự an vui toàn dân, không
phân biệt chủng tộc, tôn giáo. Chỉ
tiếc về phía người vợ mọn là
Tống Thị như chúng tôi đă nói ở trên. 3. Hoàng tử Nguyễn Phúc Khê Về nhân vật này, Đắc
Lộ viết rất ít, thế nhưng lịch
sử lại cho phép khám phá ra một người
hết sức quan trọng trong triều đ́nh
Nguyễn, vào cái buổi sơ khai dựng cơ
nghiệp và thanh thế ở Đàng Trong. Năm 1644 khi Đắc Lộ
tới Đàng Trong, ông đă phái thày Inhă đi
lên phía Bắc, c̣n ông th́ trẩy vào phía Nam.
Đắc Lộ cho biết lễ Giáng Sinh năm
đó, Inhă đă tổ chức ở nhà
"một bà quí phái tên là Maria, thân mẫu
của chú nhà chúa". Đó là lời viết
trong Tường Tŕnh Đàng Trong. C̣n trong Hành Tŕnh,
Đắc Lộ c̣n nói về người chú
đó như sau: "Trong tư dinh bà Maria, có người
quản lí các công việc của con bà cũng là
chú của chúa, đă đắc lực giúp vào
dự định của chúng tôi". Vậy ông
chú này là ai. Bản Pháp văn viết rơ là
"oncle du roi" mà chú "oncle" này trong
tiếng Pháp có thể hiểu là bác, nhưng cũng
c̣n hiểu là chú. Và chú th́ đúng hơn,
bởi v́ thuộc vào hàng bào đệ của chúa,
thuộc ngành trưởng, nên mới được
làm thế tử và lên nối vị. Lúc này là Nguyễn Phúc Lan và thân
phụ Nguyễn Phúc Lan là Nguyễn Phúc Nguyên, sau
này lên làm chúa từ 1613 tới 1635, c̣n con ông là
Nguyễn Phúc Lan th́ nối ngôi từ 1635, mất
1648. Như vậy ông chú nói đây là bào đệ
của Nguyễn Phúc Nguyên. Thực lục, sử nhà
Nguyễn cho biết Nguyễn Hoàng được
10 người con trai. "Hoàng tử cả là Hà,
thứ hai là Hán, thứ ba là Thành, thứ tư là
Diễn đều mất trước. Hoàng
tử thứ năm là Hải th́ làm con tin ở
Bắc". Hoàng tử thứ sáu là Nguyễn Phúc
Nguyên, khi Nguyễn Hoàng c̣n sống, th́ làm
trấn thủ Quảng Nam từ năm 1602. Hoàng tử thứ sáu nối
nghiệp cha năm 1613, th́ năm 1620 Hợp và
Trạch hai người em, con thứ bảy và
thứ tám của Nguyễn Hoàng, làm loạn,
định làm nội ứng cho Trịnh Tráng
đến thanh toán Thuận Quảng. Việc phát
giác hai người em này "xấu hổ sinh
bệnh chết". Tới năm 1612, Thực lục
cho biết về người con thứ 10 của
Nguyễn Hoàng như sau: "Gia cho chưởng cơ
Hoàng tử Khê, (con thứ 10 của Thái Tổ) làm
tổng trấn Tường quận công. Bấy
giờ chúa tuổi đă cao, việc quân quốc
phần nhiều sai Khê quyết định, duy có
án nặng tử tù, sau khi phúc xét, th́ đợi
chúa quyết định". Như vậy chỉ c̣n lại có
Nguyễn Phúc Khê là em Nguyễn Phúc Nguyên mà thôi.
Hoàng tử thứ 9 th́ không được chính
sử nói tới, nhưng một nguồn tài
liệu khác cho biết tên là Dương. Thế
là ông chú nhà chúa mà Đắc Lộ nói tới
là Hoàng tử Khê. Chúng tôi sẽ nói sau về ông
khi đề cập tới bà Maria thân mẫu
của hoàng tử. Và chúng ta tiếp tục
biết thêm về ông chú của nhà chúa. Năm
1631 trước khi Nguyễn Phúc Nguyên mất th́
đă cho gọi Khê và thế tử đến
để dặn bảo trối trăn. Riêng
với Khê, nhà chúa nói: "Ta vâng nối
nghiệp trước, chí ta cốt trên giúp nhà
vua, dưới cứu sinh dân. Nay thế tử chưa
lịch duyệt, mọi việc lớn quân
quốc ta ủy hết cho hiền đệ
quyết định". Khê cúi đầu khóc nói:
"Thần dám đâu không đem hết sức
ngựa hèn để lo báo đáp". Thế là
rơ rệt, Nguyễn Phúc Nguyên trao cho Khê là
"hiền đệ" mọi việc lớn
trong nước và đồng thời ủy thác
thế tử cho Khê để ư nâng đỡ. Khê
là chú Nguyễn Phúc Lan. Thế nhưng chưa xong, ngay năm
Phúc Nguyên mất và con lên nối ngôi năm 1635
th́ hoàng tử Anh là em của Phúc Lan lúc đó làm
trấn thủ Quảng Nam đứng ra làm
nội ứng cho nhà Trịnh đưa quân vào.
Việc bại lộ, Phúc Lan không biết xử
trí ra sao, liền bàn với Khê. Phúc Lan kết thúc
câu nói vci Khê: "Vậy tôi muốn nhường
ngôi để tắt sự tranh giành, chú nghĩ
sao?". Nhưng ông chú của chúa không
nhận v́ ḷng trung với chúa vẫn không hề
phai lạt. Khê bèn đem quân đi bắt
được hoàng tử Anh và theo luật nước
đem xử cùng tất cả bọn đồng
lơa. Lịch sử về sau đánh giá Khê
rất cao bởi v́ nếu lúc đó Khê định
lên nắm chính quyền th́ rất thuận
lợi, rất hợp pháp. Ḷng trung tín của Khê
sẽ c̣n có dịp khác được thổ
lộ ra. "Chúa cho rằng Hoàng tử Khê có công
lớn thưởng cho một cỗ kiệu sơn
then và một quả ấn đồng". Nhưng
Phúc Lan nể và kính phục ông chú v́ lí do chính
trị và đức trung tín, c̣n về mặt tôn
giáo th́ ông không nhượng bộ. Đắc
Lộ kể trong Tường Tŕnh về Đàng
Trong là đă có sự xung khắc giữa Khê và
ông cháu. Là v́ Khê thường giao thiệp
với nhiều người ngoại quốc ra vào
tư dinh, nên ông cũng thường theo lề thói
người ngoại quốc làm các tṛ đùa,
ăn nói vui vẻ và thoải mái. Thế là Phúc
Lan tỏ ư không bằng ḷng và c̣n đưa
lời chê trách. Hẳn Phúc Lan cũng có niềm
ghen tị và nghi ngờ, cho nên ông chú ruột
mới dám ra tay hay cho người ra tay phá hủy
ngôi nhà nguyện công giáo của thân mẫu ḿnh.
Đắc Lộ viết: "Ngay đến nhà
chúa cũng bỡ ngỡ v́ sự khéo tay và nhanh
nhẹn trong mấy tṛ mua vui để giải trí,
ngài nghĩ ngợi và sợ hăi, quay về phía ông
chú là em của đức thân phụ, ngài
khiển trách ông v́ đă học được
nhiều điều, v́ ông để cho các người
của chúng tôi đi lại quen thân với ông,
bởi v́ thân mẫu ông theo Kitô giáo". Chúng tôi
sẽ nói thêm sau về việc này. Và để
kết thúc, chúng tôi đọc lời Thực
lục nói về cái chết của ông chú nhà chúa,
năm 1646: "Tổng trấn Nguyễn Phúc Khê
mất. Khê là người họ thân của chúa,
giúp việc chính trị trước sau 41 năm,
trải qua ba triều, đức lớn công to, làm
chỗ dựa quan trọng của đương
thời. Khi mất 58 tuổi. Chúa thương
tiếc lắm, tặng tá lư tôn thần b́nh chương
quân quốc đại sự Tường quận
công, thụy là Trung Nghị (năm Gia Long thứ
5 cho ṭng sự ở Thái Miếu; năm Minh
Mệnh thứ 12 phong Nghĩa Hưng quận vương)". Theo gia phả nhà Nguyễn th́ Khê
được 13 trai 16 gái. Trong số con gái này,
cháu của bà Minh Đức, có người theo
Kitô giáo. 4. Bà Minh Đức Vương Thái
Phi Khi nói về hoàng tử Khê th́
một phần nào đă đề cập tới
bà Minh Đức. Nhưng nên viết sơ lược
nguồn ngọn vấn đề như thế này.
Đọc hai tác phẩm của Đắc Lộ
Tường Tŕnh về Đàng Trong (Paris, 1652) và
Hành Tŕnh (Paris, 1653), người ta thấy
nhắc tới hai người: bà Maria, bà Madalêna,
có khi lại là bà Maria Madalêna. Dần dần sau
khi phân chia ranh giới th́ thấy nổi lên tên
một người khá đặc biệt gọi
là Maria, thỉnh thoảng lại là Maria Mađalêna,
nhưng tựu trung th́ thường là Maria. Trong Tường Tŕnh, bà Maria này
thường được gọi một cách kính
cẩn bằng tiếng Pháp là: une Grande Dame hay une
Dame (Bà Quí Phái hay Bà), mère de l'oncle du roi (thân
mẫu của chú của chúa Nguyễn Phúc
Lan),acctúe Pgincesse (bà Thái Phi đó), tante du roi (bà d́
của chúa). Năm 1624, khi Đắc Lộ
tới Đàng Trong th́ được De Pina
đưa đi thăm bà quí phái này, "một
bà hoàng, họ gần với chúa và rất sùng
thần ngoại, nhưng khi nghe cha De Pina giảng
th́ được ơn Thiên Chúa soi sáng. Từ
đó bà là điểm tựa của giáo đoàn
này. Gương của bà và thế giá của bà
đă giúp rất đắc lực cho việc
chinh phục lương dân và duy tŕ ḷng nhiệt
thành nơi những kẻ chịu phép rửa (Hành
Tŕnh 2,5). Nhưng khi viết lại một
kỉ niệm từ 28 năm (1625-1653) về trước,
Đắc Lộ ghi thêm: "Tôi vẫn thường
gặp bà suốt thời ḱ tôi ở xứ này và
tin rằng bà vẫn kiên tŕ từ 28 năm trong
việc thi hành các nhân đức đạo Chúa
Kitô". Có họ gần với chúa (proche parente
du roi), Đắc Lộ chỉ nói có vậy. Chúa đây là chúa Nguyễn Phúc
Nguyên, bào huynh của con bà là nguyễn Phúc Khê.
Thực ra cũng không biết cách xưng hô
thế nào v́ Nguyễn Hoàng có nhiều thứ phi
và các anh em phần nhiều là anh em cùng cha khác
mẹ trong chế độ đa thê. Bà Maria này
khi nghe thấy cha De Pina giảng th́ lấy tên
Maria trên đây là tên thánh. Tư dinh của bà
hẳn cũng là tư dinh của con bà, Hoàng
tử Khê được bào huynh Nguyễn Phúc
Nguyên tín nhiệm trao cho chức vụ rất
lớn trong quốc gia như đă nói ở trên.
Nhưng trong tư dinh, bà đă cho xây cất
một nhà nguyện công giáo: các giáo sĩ đi
về thường tới tư dinh và cử hành
các nghi lễ trong nhà nguyện. Giáo dân vùng lân
cận vẫn lui tới nhà nguyện và được
bà ân cần săn sóc, nếu không là chở che.
Tháng 12 năm 1640 Đắc Lộ tới Đàng
Trong lần thứ hai, th́ đă ở trong tư
dinh của bà và cử hành Tuần Thánh tại nhà
nguyện trong tư dinh của bà. Đắc Lộ kể lại
lễ Giáng Sinh năm 1643, khi Đắc Lộ c̣n
ở Macao, thày Inhaxu đă tổ chức nghi
lễ ở nhà Bà: "Inhaxu trở về phủ
để mừng lễ Giáng Sinh với đám
đông các Kitô hữu và cả lương dân;
một máng cỏ được trang hoàng rất
đẹp trong một nhà bà quí phái tên là Maria,
thân mẫu của chú nhà chúa, một nữ Kitô
hữu ḱ cựu, có đức tin can tràng qua
nhiều biến cố thử thách. Ḷng thành kính
của bà nổi bật trong ngày hôm nay, bà cho con
bà và các cháu bà đến thờ lạy và tôn kính
Vua vinh quang giáng trần, bà rao giảng những
vinh quang Thiên Chúa cho những người từ các
ngả tuôn đến viếng máng cỏ thánh".
Bà quí phái, bà có họ gần với chúa th́
dễ hiểu, c̣n bà vương phi, chúng tôi
dịch chữ princesse, không phải là công chúa, cũng
không phải là nữ hoàng, hẳn không thể là
thái hậu hay hoàng hậu, bởi v́ chỉ có thân
mẫu của thế tử được
chức này và cũng chỉ có bà này được
ghi trong sử sách và gịng tộc nhà vua mà thôi. Chữ tante du roi hơi khó
dịch. Nói "thân mẫu chú nhà chúa" th́ rơ
hơn, c̣n nếu gọi tante du roi th́ phải
hiểu là "Bà D́", chứ không phải d́,
Grande tante, của Nguyễn Phúc Lan. Nhưng cứ
theo văn mạch và ư nghĩ của tác giả mà
hiểu: Bà D́ chúa Nguyễn Phúc Lan cũng là bà
thân mẫu của ông chú chúa Nguyễn Phúc Lan, hoàng
tử Khê. Tuần thánh năm 1644, bà Maria
được gặp Đắc Lộ và xưng
tội rước lễ v́ từ gần hai năm
bà chưa gặp một linh mục nào. Lễ Lá
năm đó Đắc Lộ đă cử hành
trong nhà nguyện tư của bà dựng ngay trong
tư dinh. Nhưng đă có một nghi
ngờ về phía nhà chúa. Nguyễn Phúc Lan sợ
rằng Đắc Lộ hiểu biết về
thiên văn địa lư, có thể giúp cho gịng
họ Khê làm lớn, nếu Đắc Lộ
chỉ dẫn cho cách để mồ, để
mả, v́ năm nay bà đă ngoại thất
tuần. Do đó người ta đă canh pḥng tư
dinh của bà và giáo sĩ cũng rất e
ngại không dám lui tới nhiều. Thêm vào việc chúng tôi đă nói
trên, Nguyễn Phúc Lan tỏ ư khiển trách hoàng
tử Khê v́ hay bắt chước người
ngoại quốc làm tṛ vui và ăn nói thoải mái.
Dụng ư của nhà chúa cho Khê biết không nên
liên hệ nhiều với người ngoại
quốc. Do đó, hi sinh chữ hiếu và giữ
chữ trung, Khê cho phá nhà nguyện của bà.
Đắc Lộ cho biết : bà như điên như
dại, rất sầu khổ, đi lang thang tám ngày,
không về nhà. Bà coi như có lỗi trong
việc này. Đắc Lộ đă phải
giải thích cho bà biết đây không phải
lỗi bà và bây giờ có thể hội họp
nhau ở nơi khác, chứ không cứ phải
ở đây. Khi có tàu chở ba nữ tu Clarít và
hai cha tuyên úy người Tây Ban Nha dạt vào
Hội An v́ bị b oạđánh bạt, bà cũng
rất muốn đến để xem mặt và
phục vụ các "thánh nữ". Nhưng bà
sợ làm phiền tới con bà và cả nhà chúa.
Bà đă lén lút thuê chiếc thuyền nhỏ
để đến thăm. Khi từ biệt các
nữ tu, bà ao ước nhận được
một áo ḍng của nữ tu để khâm
liệm xác bà khi bà được gọi về
với Thiên Chúa. Thật là cảm động
cảnh biệt li. Phải đọc nguyên văn
mới thấy thấm thía (1). Sau khi hoàng tử Khê mất năm
1646 th́ bà sống cô đơn, không người
che chở. Năm 1648 Nguyễn Phúc Lan cũng qua
đời. Người ta phỏng đoán bà cũng
mất năm 1649. Người ta cũng cho
biết khi bà mất, các cháu đă hỗn xược
vào lục soát các đồ vật của bà
trong đó có các ảnh thánh, di vật thánh và
một khăn nhỏ thấm máu. Đây hẳn là
máu thánh tử đạo, nhưng họ phao ra là
bà đồng bóng phù thủy. Như trên đă nói Đắc
Lộ không biết ǵ về danh tánh đích
thực của bà mà chỉ gọi trống mà thôi.
Coi Thực lục là sử nhà Nguyễn, chúng ta
khám phá ra hoàng tử Tôn Thất Khê là con bà. Nhưng
c̣n bà th́ không có trong sử sách chính thức. Nhưng
may thay trong gia phả gịng họ nhà Nguyễn là
của Gia Long có viết "Khê là con thứ 10
(của Nguyễn Hoàng), mẹ là bà Minh Đức
Vương Thái Phi". Vậy tất cả sự
nghiệp của bà Minh Đức Vương Thái
Phi đều nằm trong sự nghiệp con bà là
hoàng tử Khê (1588-1646), c̣n về tôn giáo th́ bà
là một trong những Kitô hữu then chốt gây
dựng Giáo hội nguyên thủy Việt Nam.
Nếu đă có hoàng hậu Hêlêna mẹ vua
Constantin, đă có hoàng hậu Clotilde vợ vua
Clovis th́ chúng ta cũng có một bà vương
phi vợ chúa Nguyễn Hoàng. Giáo hội công giáo
Việt Nam hiên ngang v́ đă có một nữ tín
hữu vào tầm cỡ bà vương phi này. Chúng
tôi có một mơ ước, sau khi theo vết chân
các bậc đàn anh để t́m hiểu bà Maria
này, như L. Cadière (Une princesse Chrétienne à la cour des
premiers Nguyễn, BAVH), như Phạm Đ́nh Khiêm
(Minh Đức Vương Thái Phi, Saigon 1957), tôi
đề nghị nên cổ động tôn sùng bà
và có nguyện vọng xin lập hồ sơ phong
thánh cho người bày tôi của Thiên Chúa, bà
Maria, bà Minh Đức thứ phi chúa Nguyễn Hoàng,
thân mẫu của hoàng tử Khê, mẹ bào đệ
của Nguyễn Phúc Nguyên, bà d́ của Nguyễn
Phúc Lan. Cha Cadière cho biết đă t́m đến
mộ Nguyễn Hoàng ở làng Thạch Hăn
gần Quảng Trị, mộ hoàng tử Khê
ở xă Hiền Sĩ về Bắc Kinh thành, nhưng
c̣n mộ bà Minh Đức th́ ở đâu,
nếu không là ở trong ḷng những ai biết và
mến Bà, trong số đó có chúng tôi và giáo dân
Việt Nam. 5. Công chúa Ngọc Liên Cũng như khi nói về bà Minh
Đức Vương Thái Phi, Đắc Lộ
chỉ gọi bà Maria, th́ khi nói tới công chúa
Ngọc Liên ông cũng chỉ gọi là Maria
hoặc Maria Madelena mà thôi. Với bà này, chúng tôi
được biết thêm một người
trong hoàng tộc đă theo công giáo. Đắc Lộ gặp bà khi
đi thăm các giáo dân ở tỉnh Phú Yên năm
1641 mà ông gọi là bà Maria Madalêna, vợ ông
trấn thủ Phú Yên. Có vậy thôi. đây Bà
đă mở bệnh xá để chữa và
chứa trọ các bệnh nhân, có cả người
cùi. Có lần, nhân vụ bắt bớ và phá nhà
thờ, ông cho biết người ta cũng không
nể bà Madalêna "có họ với chúa".
"Có họ với chúa" nhưng liên hệ
họ hàng như thế nào th́ không ai biết. Vào
thời ḱ này là thời Nguyễn Phúc Lan
(1635-1648). Năm 1644, có thể là trấn thủ
Phú Yên đă đổi về Quảng Nam,
hoặc về hưu trí nơi đây và nếu có
giữ một chức vụ ǵ đó th́ cũng
chỉ như cố vấn mà thôi. Đắc
Lộ viết trong Tường Tŕnh về Đàng
Trong: "Viên quan trấn thủ năm
ngoái cai trị tỉnh Phú Yên có bà vợ rất
nhân đức, bà này có thể sánh về
nhiệt t́nh và đạo hạnh với bất
cứ bà lớn nhân đức nhất nào khác bên
trời Âu của chúng ta. Bà liên tục mong cho
chồng bà trở lại đạo. Năm nay ông
được bổ nhiệm làm trấn thủ
tỉnh Quảng Nam, nơi có những Kitô hữu
tiên khởi của cả nước Annam và
ở đây ông đă theo ư bà cho xây cất
một nhà thờ ở ngay cạnh tư dinh,
để các Kitô hữu hội nhau vào các ngày
lễ và ngày chủ nhật, chính ông cũng
thỉnh thoảng đến thờ phượng
Thiên Chúa". Thực ra trong bản Pháp văn ông
dùng chung chữ "gouverneur" là quan cai trị,
cho nên và chắc chắn ông không phải làm quan
trấn thủ, như chúng tôi vừa nói ở trên.
Ông quan cựu trấn thủ Phú Yên này rất
hiểu biết đạo và để cho bà
vợ theo, nhưng phần ông, ông không theo. Đă
có lần Đắc Lộ lăm le và làm phép
rửa tội cho ông, nhưng tới phút cuối
cùng, ông lại từ chối. Có ba lí do, một
là ông c̣n vướng mắc nhiều thê
thiếp, hai là ông thuộc hàng tướng tá,
mỗi lần ra quân đều phải cúng
tế thần và ba là (hay không nói ra) ông ngại
triều đ́nh và sợ dư luận. Bà Madalêna
rất thất vọng v́ bà tin rằng bà đă
thuyết phục được chồng và Đắc
Lộ đă giảng giải ngành ngọn về
giáo lí cho ông hiểu (2). Khi thày giảng Anrê bị bắt
và bị điệu ra ṭa, Đắc Lộ đă
muốn cậy nhờ ông can thiệp. Đắc
Lộ viết: "Sau khi đă vận động
hết sức với quan ṭa mà không được
việc ǵ th́ chúng tôi nhờ trung gian quan cựu
trấn thủ có bà vợ là Kitô hữu, nhưng
ông này tỏ ra sợ sệt, không muốn dính
dấp vào vụ này, để mặc cho quan ṭa
thừa hành lệnh từ phủ đưa
tới, ông c̣n thêm là ông sợ chúa cho chặt
đầu ông v́ vợ ông là Kitô hữu". Câu nói Đắc Lộ thường
dùng để chỉ viên quan này là "quan
trấn thủ có bà vợ là Kitô hữu".
Dầu sao, cũng có lần người ta nể
bà trấn thủ mà tránh được một
phần tai hại. Đắc Lộ viết:
"Khi quan ṭa ra lệnh cho triệt hạ các nhà
thờ ở Qui Nhơn, Bến Đá và Quảng
Ngăi, các Kitô hữu ở vùng thứ nhất
đă vận động rất khéo, nhờ trung
gian bà vợ quan trấn thủ, một nữ giáo
dân cũ, nên nhà thờ của họ chỉ
bị phá có một nửa". Sống trong một chế độ
căng thẳng v́ ghét đạo mà một người
đàn bà, cho là vợ quan lớn, dám
đương đầu công khai tỏ ḿnh là
Kitô hữu th́ hẳn bà phải có uy thế
với triều đ́nh lắm. Can đảm
hẳn có thừa, nhưng cũng phải có
một nương tựa đó là "có họ
hàng với chúa Nguyễn Phúc Lan". Nhưng
họ hàng thế nào th́ Đắc Lộ không
biết. Khi tàu các nữ tu Clarít dạt vào
bến Đà Nẵng, như đă nói ở trên,
th́ bà tận t́nh đến săn sóc. Đắc
Lộ viết: "Hơn tất cả các bà khác
trong xứ, bà Maria Mađalêna, vợ quan trấn,
tỏ ra rất trọng quí các "thánh
nữ", tên người ta gọi như
vậy. Mỗi ngày bà gửi một món quà
mới để tặng, đến thăm thường
xuyên và cho con gái một của bà đến
với các nữ tu trong mấy ngày. Cô này
chừng 13 xuân xanh, đă đem ḷng quí mến các
nữ tu và khâm phục nhân đức đến
nỗi đă quyết định đi theo. Và người
ta phải vất vả lắm mới làm cho cô
đổi ư định đi theo qua Phi Luật Tân
cùng với các nữ tu". H́nh như cô gái độc
nhất nói đây là con nuôi, chứ không phải
con đẻ. C̣n Đắc Lộ sau khi
được gặp các tuyên úy chiếc tàu
chở các nữ tu th́ về trú trọ nơi nhà
bà vợ cựu trấn thủ Phú Yên, lúc này
đă đổi về Quảng Nam. V́ trong các
lời lẽ của Đắc Lộ có nhắc
tới quan trấn thủ Phú Yên nên kể từ
cha Cadière cho tới Phạm Đ́nh Khiêm, các người
nghiên cứu lịch sử Giáo hội đă nghĩ
ngay đến mấy bản văn trong bộ
sử nhà Nguyễn, Thực lục tiền biên.
Theo Thực lục th́ tỉnh Phú Yên mới
được đặt làm phủ Phú Yên cho hai
huyện Đồng Xuân và Tuy Ḥa lệ thuộc
vào năm 1611. Nguyễn Hoàng sai Văn Phong làm lưu
thủ đất này v́ có công đánh chiếm
được của Chiêm Thành. Tới thời
Nguyễn Phúc Nguyên năm 1629, Văn Phong làm
phản xui dân Chiêm Thành vào hùa với ḿnh. V́
thế Nguyễn Phúc Nguyên truất phế Văn
Phong và đặt con rể lên thay. Thực
lục viết: "Phó tướng Nguyễn Phúc
Vinh (con trưởng Mạc Cảnh Huống,
lấy công chúa Ngọc Liên, cho theo quốc tính,
sau đổi làm hệ tính Nguyễn Hữu)
đi đánh dẹp yên và lập dinh Trấn biên.
(Khi mới mở mang, những nơi đầu
địa giới đều gọi là trấn biên),
v́ có công ấy đặc biệt cho dùng ấn
tín". Như vậy ông trấn thủ
Nguyễn Phúc Vinh có công dẹp được
ngụy quân cựu trấn thủ Văn Phong,
lại là rể Nguyễn Phúc Nguyên v́ lấy công
chúa Ngọc Liên. Việc được dùng
ấn tín cũng là dấu hiệu được
tín nhiệm nơi nhà chúa. Có thể Nguyễn Phúc
Vinh giữ chức trấn thủ Phú Yên măi cho
tới năm 1644 mới đi hưu trí về
ở tỉnh Quảng Nam. Sử không nói ǵ hơn.
Nguyễn Phúc Nguyên mất năm 1635 và tới
Nguyễn Phúc Lan, hẳn cũng chưa có sự
thay đổi lớn măi cho tới những năm
1644-1645 này. Thế là chúng ta có thể và có
chứng cớ (tuy mong manh) cho rằng bà Maria Madalêna
hay Madalêna, vợ trấn thủ Phú Yên, người
có họ hàng với chúa là công chúa Ngọc Liên,
con Nguyễn Phúc Nguyên, và ông trấn thủ (Phú
Yên) có bà vợ là Kitô hữu rất có thể và
hẳn chắc chắn là Nguyễn Phúc Vinh nói
trong Thực lục. V́ nói phải có sách, mách
phải có chứng, nên cha Cadière cũng mới
chỉ đưa ra "giả thuyết" mà thôi.
Bây giờ với Phạm Đ́nh Khiêm chúng tôi
thấy điều này là khá chắc chắn. Về công chúa Ngọc Liên th́
một tài liệu sau này cho biết vào cuối năm
1663, bà bị bắt cùng với một số
đông giáo dân tỉnh Quảng Nam. Trong số 100
người, tất cả đều chối
đạo trừ 5 phụ nữ trong đó có bà
Maria, 4 người là thường dân th́ bị
voi dày, c̣n bà v́ thuộc huyết thống nhà chúa
nên người ta nhốt bà để cho bà
chết đói chết k"ác.oBb hhutđđợi
căế ghyt hà chịồ ứcknám ngày, nhưng rồi v́ khát quá bà
đă xin gặp quan trấn và bà đă chối
đạo. Được inbn yăgcáố âạ.
ấĐ ợs uik ổàv iáo dâncr t Nầá
ghrồi bà (cùng một số người v́
yếu đuối đă chối đạo) đi
evreuil. Lần đầu tiên cha từ chối
cố ư cho bà biết tội rất nặng
của bà. Nhưng mấy ngày sau, trước khi
cha bị trục xuất và ra đi th́ cha đă
giải tội cho bà và cho bà rước lễ. Đó là vào năm 1665 đầu
tháng 3. Trong bản văn viết vào thời ḱ này,
các giáo sĩ vẫn dùng những từ ngữ
rất tôn trọng để chỉ "bà
Maria" này. Có một bản văn viết
bằng tiếng Pháp mà ghi rơ bằng tiếng
Việt là "Bà Maria" quả phụ một
quan lớn (grand mandarin). Ngoài ra người ta
gọi bà là "La maitresse qui s'appelait Ba Maria",
"la maitresse fort vénérable". Rồi sau không
biết bà mất vào năm nào và mất trong
những hoàn cảnh nào. 6. Công chúa Ngọc Đỉnh Khi chúng tôi nói về bà Minh Đức
Vương Thái Phi, th́ chúng tôi đă dựa vào
nhiều đoạn văn Đắc Lộ
viết về bà này và nửa gịng ghi trong gia
phả Nguyễn Phúc Khê, ông này được nói
nhiều Hàng tŕnh của Đắc Lộ, chúng tôi
bàn giải về công việc của ông cũng
dựa vào một số bản văn của
Đắc Lộ và một đoạn trích trong
Thực lục nói về ông trấn thủ
Nguyễn Phúc Vinh, mà cũng chỉ có một
đoạn thôi. Tới công chúa Ngọc Đỉnh
th́ tuyệt nhiên, Đắc Lộ không cho
biết ǵ hết. Khi Đắc Lộ lên thăm giáo
dân ở vùng lũy Trường Dục hay lũy
Thầy ông viết: "Sau khi rảo khắp trung tâm
đất nước này, cuối cùng tôi tới
tỉnh Quảng B́nh, ở sát biên giới Đàng
Ngoài có lũy kiên cố chia đôi hai nước.
Người Đàng Ngoài thường dồn
hết lực lượng để chiếm, nhưng
đều vô hiệu. Tôi đến thành phố
chính của tỉnh và đem lễ vật đến
tặng quan trấn. Ông rất niềm nở
đón tiếp tôi. Ông nói rất thành thạo
về các mầu nhiệm đạo ta, làm cho tôi
tưởng xưa kia ông là giáo dân, điều mà
không bao giờ ông thú nhận" (Đắc
Lộ, Hành Tŕnh, 9.2 ch.27). Đó là năm 1644. Chúng tôi xin trưng
thêm một đoạn Saccano viết năm 1647 khi
xảy ra việc bắt ba giáo dân và chính quan
trấn thủ Quảng B́nh là người
được nhà chúa cho đứng ra xử
tử. Saccano viết: "Quan trấn thủ là Kitô
hữu, nhưng chỉ có tên mà thôi, ông không sao
ngăn cản được, cũng không sao
cứu người vô tội thoát án tử h́nh,
bởi v́ khi ông định, hoặc là lẩn tránh,
hoặc ít ra kéo dài việc thi hành bản án chúa
ban ra, th́ một viên quan thuộc phái nhà nho nài
nẵng đ̣i chúa quyết định truyền
thi hành án tử ngay, thế là ông buộc ḿnh
phải cho thi hành". C̣n về sách đạo
th́ ông truyền không được đốt
bằng cách nào khác, mà phải treo lên trên không,
ông nói: "V́ là sách đạo Thiên Chúa, nên không
được phép để cho chạm tới
đất" (3). T́m về Thực lục năm
1623 thấy nói tới một sự việc như
sau: "Lấy Nguyễn Phúc Kiều
(vốn họ Nguyễn, cho theo quốc tính, sau
đổi là (hệ tính) Nguyễn Cửu) làm cai
đội, coi đội mă cơ. Kiều từ
Đông đô đem mật thư của Ngọc
Tú về dâng. Chúa rất mừng, đặt trao
cho chức ấy, rồi gả công chúa Ngọc
Đỉnh cho". Việc gả công chúa cho
Nguyễn Phúc Kiều đă là dấu hiệu tin
tưởng và quí mến, nhưng tới năm
1633, Nguyễn Phúc Nguyên c̣n trao cho Kiều chức
trấn thủ Quảng B́nh. Thực lục
viết: "Mùa Thu tháng 8, triệu trấn
thủ Quảng B́nh là Hoàng tử Tuấn về,
cho Nguyễn Phúc Kiều thay". Thế là ở hai ngọn đầu
đất nước, nhà chúa đặt hai chàng
rể thân tín: Nguyễn Phúc Vinh ở Phú Yên và
Nguyễn Phúc Kiều ở Quảng B́nh. Nếu Thực lục chỉ ghi
danh tánh Nguyễn Phúc Vinh lấy công chúa Ngọc
Liên và làm trấn thủ Phú Yên có một
lần, th́ sử nhà Nguyễn nói về
Nguyễn Phúc Kiều khá nhiều, bởi v́ ông này
là một tướng giỏi đương
đầu với quân nhà Trịnh ở Đàng
Ngoài đánh vào. Thời Nguyễn Phúc Lan, Thực
lục c̣n ghi chiến công của Nguyễn Phúc
Kiều năm 1640 và 1648, năm ông chúa này
mất. Như vậy thời ḱ Đắc Lộ
tới Quảng B́nh th́ ông trấn thủ ở
đây là ai nếu không phải là Nguyễn Phúc
Kiều và khi xảy ra vụ án xử tử hai
Kitô hữu, Autinh và Alexis năm 1647, theo lời tường
thuật của giáo sĩ Saccano, th́ quan trấn
thủ cũng là Nguyễn Phúc Kiều,
"một Kitô hữu, nhưng chỉ có tên mà
thôi", theo Saccano. Dầu sao, ông quan này cũng có
thiện chí cứu các nạn nhân mà không
được. Ông cố tŕ hoăn nhưng rồi
cũng thi h thành công trong vinh trọng các sách
đ Có một chi tiết khtrọng
cần phải nói ở chắc chắnết
chắc chắn cuộc tử h́nh được
diễn ra ở tại tỉnh Quảng B́nh và do
ông trấn thủ Quảnga ở tại tỉnh
Quảng B́nh và do ông trấn thủ Quảng B́nh
thi hành, đó là điều Saccano viết rất
rơ ràng: "Lệnh thi hành bản án
được trao cho quan trấn thủ Quảng
B́nh, hơn nữa ông cũng được
lệnh bắt các Kitô hữu và cho một h́nh
phạt làm gương, tùy ông xét xử".
"L'ordre de faire exécuter tout cela, fut donné au Gouverneur
de Quanbinch et d'abondant lui fut commandé, qu'autant qu'il
attraperait de Chrétiens, il en fit une punition exemplaire selon
qu'il jugerait" (Metelle Saccano, Relation, Paris 1653, p.97). Thế nhưng c̣n một chi
tiết độc nhất làm cho chúng ta có
thể phỏng đoán - và phỏng đoán mà thôi
- đó là chi tiết người can đảm dám
táo bạo đem chiếu điều trải trước
mặt hai người sắp bị chém đầu.
Saccano viết: "Các tử đạo của chúng
ta bị đưa tới nơi hành h́nh, lương
dân và binh lính cùng các nhân viên ṭa án đứng
một bên, c̣n một bên là các Kitô hữu.
Cả đàn ông và cả đàn bà, làm thành
một hàng rào rộng lớn. Có một Bà Kitô
hữu tỏ ḷng bác ái và can đảm ở
chốn hành h́nh rộng lớn này: Bà tiến
đến gần các tù nhân, trải chiếu cho
các vị qú lên trên, để cho máu không
thấm xuống đất và mặc dầu các
vị khiêm nhường hết sức từ
chối danh dự này, nhưng cuối cùng các
vị phải thua sức mạnh của ḷng thương
mến: Bà không sợ sắc lệnh chúa mà viên
lục sự vừa mới công bố: Hết
những ai bị bắt tin theo đạo người
Bồ th́ bị chém đầu". Phải chăng đây là bà công
chúa Ngọc Đỉnh, phu nhân Nguyễn Phúc
Kiều, trấn thủ Quảng B́nh. Chỉ có
một người tầm vóc như bà, mới dám
ra mắt công khai trong việc này mà không sợ
bị liên lụy. Nếu Đắc Lộ nói
nhiều về bà Minh Đức, về bà công chúa
Ngọc Liên th́ về công chúa Ngọc Đỉnh
phu nhân Nguyễn Phúc Kiều, Đắc Lộ cũng
như Saccano, đều không nói ǵ tới. Người
tới giải chiếu cho các tử đạo qú,
cũng theo giả thuyết, phỏng đoán, có
thể là Ngọc Đỉnh chăng? Và chúng tôi
không dám nói ǵ thêm. C̣n về Nguyễn Phúc Kiều th́
Thực lục cho biết năm 1648 "trấn
thủ Nguyễn Phúc Kiều xin giữ lũy Trường
Dục để làm kế cố thủ". Năm
1652 vào thời Nguyễn Phúc Tần, Kiều
được lệnh bỏ thuốc độc
cho Thị Thừa chết đi. Năm 1655 trong
một trận chiến, Kiều đưa quân lên
làm tiên phong. Trận kéo dài và năm 1656 ông
tử trận. Thực lục viết: "Kiều bị thương
rồi chết (tặng là Đặc tiến
phụ quốc thượng tướng quân
Tả quân đô đốc phủ tả đô
đốc Nghĩa quận công, lập đền
thờ ở xă Dương Xuân, cấp cho tự
phu 50 người". Cũng nên biết, khi Nguyễn Phúc
Khê mất th́ được tôn là "Tường
quận công", c̣n Kiều th́ được
tặng chức như Khê đó là "Nghĩa
quận công". 7. Thanh Đô Vương Trịnh
Tráng (1623-1657) Chúng ta không thể không nhắc
tới Trịnh Tráng, hiệu Thanh Đô vương.
Ông được Đắc Lộ trân trọng
gọi là chúa lần đầu tiên đă
tiếp đón các giáo sĩ Ḍng Tên. Và thật
vậy năm 1626 ông chúa này đă hậu đăi
phái đoàn thương gia người Bồ có
cha Baldinotti đi làm tuyên úy, nhưng thực ra
đi t́m đường truyền giáo ở Đàng
Ngoài. Theo Tường Tŕnh của cha, th́ thấy
Trịnh Tráng cởi mở, khôn ngoan và ham
học. Là con một nữ ca sĩ, ông thích hát
ca xướng họa. Có lần ông mời cha
Baldinotti đi dự, nhưng cha từ chối,
để cho người Bồ đi mà thôi. Ông
cũng ham học hỏi, thường cho người
tới mời cha đến giảng cho ḿnh nghe
về thiên văn, về việc vận chuyển
các hành tinh, về nguyệt thực, nhật
thực. Ông tiếp đăi phái đoàn người
Bồ rất nồng hậu, thường cho người
đem bánh kẹo, quà cáp đến tặng. Giáo
sĩ cho biết ông thao luyện vơ niht,ôcgitnaự,
ubện cơn, gxệm,cgèt ah y nắc iung, xem chèo
thuyền chiến. Thế nhưng ông rất
cẩn thận lo việc nước, nhất là lúc
này đang chuẩnấb àưl cunnyvđonđ nh
ẩg yịnđ a q âNguyên. Thực ra, ông muốn liên lạc
và nhất là mua súng ống đạn dược.
Biệt đăi các người ngoại quốc,
nhưng khi ông được người ta cho
biết giáo sĩ đă mật cho người
đem thư vào Đàng Trong để xin Bề
trên phái người thông thạo tiếng ra Đàng
Ngoài giảng đạo, th́ ông nghi ngờ,
rồi ông không cho phái đoàn ra đi như
đă định. Ông bắt lập đền
thờ và bắt phải thề là không có liên
hệ ǵ với Nguyễn Phúc Nguyên, ông bắt phái
đoàn phải thề trung thành với ông và không
liên lạc với Đàng Trong. Trước khi phái
đoàn ra đi, ông c̣n mở tiệc khoản
đăi và mở kho tàng của ḿnh cho họ coi,
như thể bảo ngầm họ rằng: ta có
những thứ này, có súng lục, có ngọc
trai, các ông liệu đem cho ta những thứ
ấy. Khi Đắc Lộ năm 1627
tới th́ được Trịnh Tráng tiếp
đón nồng hậu vào lúc nhà chúa đưa quân
đi đánh Nguyễn Phúc Nguyên. Người
Bồ khôn khéo đă tặnp ờn ồmktôk
ẩh oúđg đặ gựôvg. Độc Lh uăstnn
ể tự vệ. Đắc Lộ đă
tặ,gmột đồng hồ bằng cát và
một đồng hồ máy báo thức, có chuông
kêu khi vặn đúng giờ đó. Đắc
Lộ c̣n tặng ông một cuốn sách bằng
chữ nho do các giáo sĩ Ḍng Tên bên Tàu ấn hành.
Đó là cuốn Kỉ hà nguyên bản, sách h́nh
học của Euclide mà Từ Quang Khải cộng
tác với cha Ricci đă dịch và in tại Trung
quốc. Trịnh Tráng rất thích hai đồng
hồ và dĩ nhiên khẩu súng nữa. Có
lần ông đợi lâu chưa thấy chuông reo
"báo thức" ông sốt ruột hỏi
lại Đắc Lộ. Có lần ông mời giáo
sĩ qua thuyền ông để nghe hát: giáo sĩ
tới dự và Trịnh Tráng ṭ ṃ hỏi xem bên
trời Âu người ta ca hát thế nào.
Trịnh Tráng cũng cho vời Đắc Lộ
tới để cắt nghĩa toán học,
giải thích sự vận chuyển các hành tinh
cho ḿnh nghe. Nhưng khi giáo sĩ muốn từ thiên
văn địa lí giảng đạo cho ông nghe
th́ ông xin khất lần khác. Trịnh Tráng đưa phái đoàn
người Bồ trong đó có Đắc Lộ
và cha Marguez, một người lai Bồ, bố
Bồ mẹ Nhật, về Thăng Long Kẻ
Chợ, và cho phái đoàn ngụ tại phủ chúa.
Nhưng sau giáo sĩ xin ở ngoài phủ để
tiện việc đi lại của những người
muốn đến học đạo. Trịnh Tráng
đă cho một khu nhà đẹp đẽ sang
trọng như nhà các qual tủọ gẻ
Chợ h như bị thất lạc v́ chiếc tàu
chở phái đoàn về đă gặp tai nạn
và đắm ở đảo Hải Nam. Dân
ở đảo t́m được và cha Bề trên
Palmier đă bỏ tiền ra chuộc lại,
hiện c̣n được lưu trữ tại thư
viện Vaticăng. Theo bức thư th́ thấy
Trịnh Tráng cũng đă chủ ư t́m hiểu và
có những lời lẽ rất thích hợp
cảm ơn cha Bề trên đă phái hai "giáo
sĩ tinh thức thiên văn địa lí"
đem "Thánh giáo" dạy "thập
giới tổng hợp tại tam" dạy cho
"chúng sinh". Trịnh Tráng khá lịch
thiệp khi nói ḿnh cũng rất khâm phục
"Thánh giáo" và tiếp đăi các giáo sĩ
cho ngụ ở một nơi thuận tiện
"xem hiện tượng trời đất và
xét nghiệm điềm lành". Nhưng dẫu
sao, Trịnh Tráng không quên việc giao thông buôn bán.
Việc "thông hảo. .. thuận nhân t́nh,
tiện dân dụng chi sự", dĩ nhiên không
cần phải nói. Kèm theo thư Trịnh Tráng
gửi tặng: trầm hương, nhị cân,
Bạch tế bố, bát thất. Cát nhàn nhất
lâu, trọng thập cân. Thế là các văn kiện
thời Trịnh Tráng không c̣n cho tới ngày nay,
trừ bức quốc thư Trịnh Tráng gửi
cha Bề trên Ḍng Tên ở Macao năm 1627.
Trịnh Tráng c̣n khá lịch thiệp và biết cư
xử nhất là đối với người
ngoại quốc, bởi v́ năm 1629 khi ông nghe
theo lời cận thần xúi giục mà ra
lệnh trục xuất hai giáo sĩ th́ ông cho người
đem cho hai giáo sĩ hai đồng êcu và
vải quí, cung cấp cho một chiếc
thuyền có đủ thuyền trưởng và người
chèo để dẫn vào Đàng Trong. Thực ra năm 1629 này là năm
đói kém v́ thế vua Lê mới đổi niên
hiệu Vĩnh Tộ ra Đức Long. Và cũng
năm này, theo Đắc Lộ, Trịnh Tráng không
thấy phái đoàn người Bồ tới như
đă mong, đă hẹn: chiếc tàu năm 1627
khi trở về, đă bị đắm ở
đảo Hải Nam như vừa nói, nên có
sự trậm trễ, ngại ngùng của các thương
gia. Nhưng khi Đắc Lộ c̣n
nằm chờ ở Thanh Nghệ Tĩnh th́ người
Bồ ở Macao đă trở lại Đàng Ngoài
đem theo giáo sĩ Gaspar d'Amaral người
Bồ. Thế là cả D'Amaral và Đắc
Lộ cùng lên Kẻ Chợ, được
Trịnh Tráng tiếp đăi, v́ có người
Bồ tới làm công việc thương mại
(và biết đâu có bán vũ khí mà Trịnh Tráng
đang cần để đối phó với
Đàng Trong). Cũng năm đó khi phái đoàn
trở về Macao th́ giáo dân Đàng Ngoài đă
đệ một bức thư lên đức giáo
hoàng Urbanô VIII, đề: "tự Thiên Chúa giáng
sinh chí kim, nhất thiên lục bách tam thập niên.
thần bổn đạo đẳng, Kê thủ
đốn thư, túc tŕnh tư thư". Chúng
tôi tất cả bổn đạo cùng nhau cúi
đầu kính đệ bức thư mọn này.
(Coi Vơ Long Tê, Lịch sử văn học công giáo
Vietnam, Saigon, 1965 trang 116.) Như vậy, mới có
3 năm thụ giáo mà giáo dân Đàng Ngoài đă
ăn nói đĩnh đạc, suy nghĩ chín
chắn về đạo như thế và
Trịnh Tráng cũng tỏ ra hiểu biết như
thế, th́ hẳn là do hoạt động
rất tích cực của Đắc Lộ và cũng
nhờ vào óc cởi mở của Trịnh Tráng.
Không cởi mở mà Trịnh Tráng đă để
ḍng họ nhà ḿnh có người theo Kitô giáo,
đó là bà em Trịnh Tráng cùng cụ thân
mẫu đă theo đạo: bà Catarina đă nói
ở trên. Nhưng cũng phải nói Trịnh Tráng
đă cho xử tử một giáo dân tên là
Phanchicô chỉ v́ ông này không chịu bỏ
việc đi chôn xác người nghèo. Nhà chúa không
thể chịu để người khiêng cáng,
khiêng kiệu cho ông mó tay vào xác chết (Sd. 9.2
ch. 38). Có thể coi đây là người
chứng thứ nhất ở Đàng Ngoài.
Thực ra cũng đă có người Kitô
hữu phục vụ trong nhà chúa, phủ chúa, như
viên binh sĩ pháo thủ trước kia làm
việc với người Bồ, thông thạo
về pháo binh, nay phục vụ cho nhà chúa và
chết v́ tai nạn bắn pháo (Sd. 9.2 ch. 26). Trịnh Tráng c̣n sống cho
tới năm 1657 và giáo sĩ Tissanier, Marini c̣n tường
thuật và cho biết nhiều chi tiết khác
về ông chúa này. Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) Đàng Trong, việc truyền giáo
bắt đầu sớm hơn ở Đàng Ngoài,
nghĩa là vào năm 1615 dưới thời
Nguyễn Phúc Nguyên. Nhưng trong các bài tường
tŕnh, ít nói trực tiếp đến ông chúa
Nguyễn này. Người ta chỉ nói tới ông
nghè Quảng Nam, Hoàng tử Ḱ con trưởng
Nguyễn Phúc Nguyên, ông chú của chúa Nguyễn
phúc Khê, bà d́ của chúa hay thân mẫu của bào
đệ của chúa là bà Vương Thái Phi Minh
Đức mà thôi. Tuy nhiên với một số người
thân thích có cảm t́nh với Kitô giáo như
thế th́ nhà chúa cũng không thể có ác
cảm được. Trong những vụ
nhật thực, nguyệt thực, người ta
được biết là Nguyễn Phúc Nguyên có
những nhà toán học riêng của ḿnh, c̣n Hoàng
tử Kỳ cũng có những nhà toán học riêng
của ḿnh. Mà v́ Kỳ đă cho các cộng tác
viên của ḿnh đến học với Ấá
ủi ósh,đnn học viitc cígháo sĩn ày
giờ xảy ra nhật thực, nguyệt
thực đúng hơn các chuyên gia của
Nguyễn Phúc Nguyên. Theo Borri th́ Nguyễn Phúc Nguyên có
gả một công chúa cho nhà vua Campuchia, lại
cung cấp chiến thuyền và vơ khí cho nhà vua
để đương đầu với Thái
Lan đe dọa nơi biên thùy. Điều này
sử ta không nói tới nhưng quốc sử
Campuchia ghi rơ rệt (Nguyễn Đ́nh Đầu,
Địa lư lịch sử thành phố Hồ Chí
Minh, trong Địa chí văn hóa T.P. H.C.M., 1987,
trang 148). Vẫn theo Borri, chính Nguyễn Phúc
Nguyên phái sứ thần Đàng Trong đi
Campuchia: ông này đă nể lời bà vợ là
Kitô hữu tân ṭng mà xin chịu phép rửa
tội trước khi cho căng buồm trẩy
đi Campuchia. Nguyễn Phúc Nguyên c̣n có hai tướng
làm rể, lấy công chúa Ngọc Liên và Ngọc
Đỉnh, Nguyễn Phúc Vinh và Nguyễn Phúc
Kiều, cũng như có bà Minh Đức Vương
Thái Phi là bà d́ theo Kitô giáo. Theo lời các giáo sĩ để
lại, nhất là Borri th́ thấy Nguyễn Phúc
Nguyên rất cởi mở, rất sáng suốt. Ông
tỏ ra không sợ ai, người Ḥa Lan, người
Bồ, người Nhật, hay ncưBi,T ug ờn hởtc aađón nhận
hết và cho phương tiện hoạt động
thông thương buôn bán. Kể từ đời
Nguyễn Hoàng, hai cửa biển Hội An và Qui
Nhơn là hai hải cảng lớn, Nguyễn Phúc
Nguyên không cần biết tới tôn giáo mới,
nhưng ông cần buôn bán với người
Bồ, cần súng ống đạn dược
của người Bồ, để chống
lại quân của Trịnh Tráng. Người
Bồ đă xúi ông không cho người Ḥa Lan
tới, nhưng ông không nghe: ông có nhăn quan thương
mại chứ không có nhăn quan ư thức hệ. Năm 1624 Đắc Lộ tới
Đàng Trong vào thời Nguyễn Phúc Nguyên, nhưng
chỉ hai lần gián tiếp nhắc tới ông này.
Một lần Đắc Lộ theo De Pina đến
thăm bà Minh Đức và một lần xin ông
nghè hoàng tử Hoàng tử Kỳ thỉnh cầu
nhà chúa cho ở lại một trăm ngày để
lo lễ giỗ De Pina chết đắm tàu ở
Hội An năm 1625. Sử nhà Nguyễn Thực lục
tiền biên viết nhiều về sự
nghiệp của Nguyễn Phúc Nguyên. Chúng tôi không
nhắc tới ở đây. Chỉ biết vào
thời ông, Giáo hội Kitô tương đối
được b́nh an thịnh trị. Ông mất
năm 1635 và người con thứ là Nguyễn Phúc
Lan lên kế vị. 9. Nguyễn Phúc Lan (1635-1648) Chúng tôi đă một cha nhà chúa
Hoàng tử Khê hay bà d́ của nhà chúa, thân
mẫu ông chú nhà chúa là bà Minh Đức Vương
Thái Phi, nhất là Tống Thị, quả phụ
bào huynh của nhà chúa là hoàng tử Hoàng tử
Kỳ. Nguyễn Phúc Lan quả là người có
vấn đề. Trước khi Nguyễn Phúc
Nguyên mất, đă nhờ hoàng tử Khê để
ư giúp đỡ thế tử trong việc trị
nước. Mới lên kế vị đă có người
em làm loạn khiến Nguyễn Phúc Lan chán
nản muốn trao quyền trị nước cho
người chú là Khê. Nhưng rồi vướng
vào vụ Tống Thị, mê sắc dục tham
ngọc trai, Nguyễn Phúc Lan tỏ ư chê trách ông
chú làm cho ông này cho người phá nhà nguyện
công giáo của bà Vương Thái Phi. Lan cũng
ra ḷng xa lánh Đắc Lộ và bà Vương Thái
Phi v́ sợ Đắc Lộ có tài địa lí
t́m cách để mồ để mả cho phát,
ngơ hầu ḍng họ bà Vương Thái Phi sau này
lên cầm quyền. Cũng dưới thời
Nguyễn Phúc Lan do ảnh hưởng xấu
của Tống Thị mà Anrê Phú Yên bị
chết v́ đạo rồi tiếp theo sau
mấy năm là hai thày giảng khác, Y Nhă và Vinh
Sơn. Tính khí ông chúa này khá ḱ dị. Năm
1645 khi chiếc tàu Tây Ban Nha chở bốn nữ
tu Clarít và hai giáo sĩ Phanchicô bị băo đánh
dạt vào cửa Hội An th́ Nguyễn Phúc Lan và
bà chính phi ṭ ṃ muốn một mực bắt các
nữ tu phải ra mắt cho chúa ông và chúa bà xem
mặt. Sau nhiều lo lắng và do dự,
thuyền trưởng người Tây Ban Nha
phải nhượng bộ. Thế là thuyền trưởng
và quan sĩ tùy tùng cùng với năm chục
thủy thủ người Tây được
đưa về Thuận An. Đắc Lộ
kể lại chỉ v́ người ta đồn
thổi là các nữ tu thánh thiện không để
tóc mà cạo trọc đầu. Nghi lễ đón tiếp các
nữ tu được tổ chức cực ḱ
long trọng. Thuyền trưởng người Tây
Ban Nha với hai viên quan tháp tùng cùng hai giáo sĩ
đi theo. Một bữa tiệc thịnh soạn
khoản đăi phái đoàn, có ca múa, hát xướng.
Có chừng bốn ngh́n lính gác. Các nữ tu
vẫn che kín mặt và chỉ bằng ḷng vén khăn
khi đi qua trước mặt chúa bà mà thôi. Tuy
nhiên để chiều ư chúa bà, một bà đi
theo hầu được phép sờ đầu
một nữ tu đă có tuổi và rồi nói
lớn tiếng cho chúa bà biết là có cạo
đầu trọc thật. Dầu sao các nữ tu được
trọng kính và v́ nể, được nhiều
quà tặng. Giáo dân đến nghe các bà hát kinh và
là một dịp làm phấn khởi giáo đoàn. Hôm đó Nguyễn Phúc Lan cho thao
diễn một trận thủy chiến trên sông Hương.
C̣n thế tử th́ biểu diễn ngựa
trận ở trên đất liền. Hôm sau
lại có một cuộc thao diễn chiến
thuyền khác. Ngày thứ ba Nguyễn Phúc Lan c̣n
tổ chức tế vong linh tiên tổ có tới
sáu ngàn binh lính túc trực. Đó là vào ban sáng,
tới ban chiều lại thao diễn một
trận thủy chiến nữa. Đó, tính khí ḱ cục của ông
chúa này được biểu lộ trong cuộc
tiếp đón các nữ tu như vậy đó. Đắc Lộ có lần
muốn yên tâm truyền giáo th́ đă phải dâng
chúa tặng phẩm như đồng hồ có
khắc chữ nho. Chính Nguyễn Phúc Lan đă ra
lệnh trục xuất Đắc Lộ năm
1645. Từ đó ở Macao người ta biết
ông chúa này thích ngọc trai, nên mỗi lần
tới thông thương buôn bán th́ biếu chúa
những hạt trai quí. Giáo sĩ Saccano, người
tiếp sau Đắc Lộ tới Đàng Trong,
đă nói rằng Nguyễn Phúc Lan khi mới
được tin người Bồ tới
Cửa Hàn tức Hội An và đem theo ngọc
trai, th́ ông đă vội vă cho người
tới đưa họ về phủ. Và khi
nhận được từ tay người
Bồ bốn ḥn ngọc trai th́ Nguyễn Phúc Lan
đưa lên hít lấy hít nể, sung sướng.
Thực lục cũng cho biết: Tống Thị
đă dâng chúa một chuỗi ngọc bách hoa
để được ra vào cửa phủ nhà
chúa, kể từ năm 1639. Năm 1648 Nguyễn Phúc Lan
đưa quân chống lại quân Trịnh
phạm cửa Nhật Lệ. Nhưng rồi ông
rút quân về, tới Phá Tam Giang th́ băng ở
thuyền ngự. Thực lục kể lại như
thế. C̣n Lê Quí Đôn trong Phủ biên tạp
lục th́ lại viết: "Phúc Lan trúng độc
của người yêu là Tống Thị, rút quân
về, ngày 26 tháng 2 về đến Phá Tam Giang
th́ chết". (Sd. tr. 55) _ Nguyễn Khắc Xuyên
Mời xem thêm : Giáo sĩ Đắc Lộ và việc h́nh thành chữ quốc ngữ |