|
Món Ngon Quảng Nam Một trong những món ăn
ở Quảng Nam mà ít địa phương nào
có, đó là món khoai lang chà khô. Xứ Quảng
nổi tiếng với nghề trồng khoai, coi
khoai như một báu vật của trời dành
cho vùng quê nghèo "chó ăn đá, gà ăn cát".
Không phải ngẫu nhiên mà từ năm 1545,
Bắc quân Ðô đốc Bùi Tá Hán khi giữ
chức trấn thủ Quảng Nam đã khuyên dân
nên trồng khoai và lúc nấu cơm ăn nên
"ghế" (độn) thêm khoai. Khoai ngon
nhất xứ Quảng là khoai trồng ở vùng
đất nào? Làng Quế Mỹ (huyện Quế
Sơn) có câu: "Nhất gái Quế An, nhì khoai
lang Quế Mỹ". Sau khi thu hoạch xong, người
dân lựa riêng những củ lớn để
xắt phơi khô, còn số củ vừa
hoặc nhỏ thì để riêng ra làm khoai chà. Cách
làm đơn giản, đem khoai nấu cho
vừa chín tới, nếu chín quá thì khó chà, giã
rồi bỏ vào trong cối tiếp tục giã
nhỏ. Sau đó, xúc ra rổ sảo (loại
rổ lớn) chà xát, bóp nhỏ, lấy phần
dưới rổ rải ra nong phơi khô vài
nắng, rồi lại tiếp tục giã. Với
cách làm thủ công này, ta có được hai
loại khoai chà: loại nhỏ hạt và loại
lớn hạt. Khoai chà loại nhỏ được
ăn bằng cách cạo đường bát vào
hoặc trộn đường cát và dùng lá mít
xúc ăn. Bấy giờ, vị ngọt, bùi,
dẻo của khoai và đường quyện vào
nhau như cặp vần sáu, tám trong thể thơ
lục bát. Vừa ăn vừa nghe những câu
lục bát vọng lên: Trăng rằm đã tỏ
lại tròn Còn loại lớn hạt, lúc
muốn ăn thì phải "sú" thêm nước
sôi đặng khoai mềm, dễ ăn. Khoai
nở ra thơm nức mũi và sắc mầu
lại thanh nhã lạ lùng. Người Quảng
Nam thích món ăn này, vì nó có tác dụng "kiên
cường" là... chống đói một cách
"bền bỉ". Sáng đi cày, "chơi"
một bát khoai chà thì cam đoan đến
giờ ngọ bụng vẫn còn no. Từ lúc
lớn lên tôi đã nghe mẹ dạy: "Bỏ
khoai lang mang lấy nợ" hoặc "Nhất
đậu phụng rang, nhì khoai lang bùi". Món
ăn này bất luận giàu nghèo cũng đều
ưa chuộng. Mà đã nói đến món khoai chà
thì không thể bỏ qua một đặc
sản chế biến từ trái của một
loại cây mà người Quảng Nam có câu đố:
"Mẹ không gai không góc, đẻ con có góc có
gai" là cây gì ? Khoan trả lời, cứ để
đó "hạ hồi phân giải" . Cũng
giống như khoai lang, với người xứ
Quảng thì cây mít được "tận
dụng" tất tần tật ! Trái mít ăn
chín thì ngon đã đành rồi, còn hột mít
lại được phơi khô để dành
ăn dần; mỗi lần nấu cơm thay vì
"ghế" khoai lang thì ta lại "độn"
hột mít, bấy giờ hạt cơm "cõng"
lấy hột mít ăn nghe thơm, bùi lạ lùng: Ai về đất Quảng làm dâu Nếu bạn về xứ
Quảng, gặp lúc dùng cơm như thế mà
nghe trẻ em nói: "Hít vào hít ra, hít
một", đố hột gì thì bạn ắt
hiểu là... hột mít! Còn xơ mít bỏ đi
chăng ? Ðừng có dại. Xơ mít đem kho
với cá thì ngon tuyệt vời. Nhưng mít
trộn mới thực sự là món ăn độc
đáo từ mít. Vật dụng để
chế biến dứt khoát phải là trái mít non,
không bị sâu hay eo thắt cằn cỗi thì
mới có vị ngon, thơm. Trái mít non còn tươi
được cắt bỏ phần vỏ gai và
cùi, rồi cắt từng miếng nhỏ;
rửa sạch mủ đặng bỏ vào
nồi luộc mềm, đừng quên cho thêm
một ít muối. Luộc xong, vớt ra xắt thành
từng lát mỏng rồi đem trộn với
muối, tiêu, mắm, ớt, tỏi, dầu
mỡ phi hành, đậu phụng rang, rau thơm:
Ðơn giản vậy, nhưng nếm thử xem.
Ngon tuyệt! Nhưng "ngon càng thêm ngon"
nếu bạn cho vào một ít tôm luộc cũng
xắt mỏng và ít thịt heo luộc. Cũng không
thể thiếu cái bánh tráng nướng. Ðúng
thế, đem bánh tráng xúc với mít trộn là
một cách ăn điệu nghệ. Sực
nhớ đến hai câu ca dao hay quá, xin ghi lại
kẻo quên: Tay cầm bánh tráng mỏng nương
nương. Với món mít trộn dân dã này
nếu nhân vật Martin Yan - người khởi xướng
chương trình ẩm thực Yan Can Cook rất
nổi tiếng trên thế giới, từng
được Trường Ðại học Johnson
& Wales phong tặng bằng Tiến sĩ danh
dự về nghệ thuật ẩm thực,
Viện Nghệ thuật Colorado phong tặng
Tiến sĩ danh dự về nhân văn -
biết được cách chế biến thì
chắc chắn ông ta sẽ vô cùng ngưỡng
mộ. Như nhà nghiên cứu văn hóa Quảng
Nam Nguyễn Văn Xuân đã nhận xét: "Người
Quảng ăn đậm, đặc". Mặn
thì mặn đắng, nước mắm, mắm
nêm không pha chanh, pha giấm, không thêm đường;
cay thì cay xé họng và đã béo thì phải béo
ngậy. Tôi đã từng được mời
dự mấy cỗ ăn khao ở Chợ Ðược,
thấy thịt heo, thịt bò xắt từng
cục vừa miệng, cả lòng, ruột, phèo,
lá sách phổi, bao tử đều xắt, đều
luộc... Rồi bỏ vào rổ, đổ thêm
dầu phụng vào mà xóc đều, trông láng lưỡng.
Bưng lên mấy thực khách đồng quê,
họ kẹp rau, chấm mắm nêm làm ráo
trọi một cách ngon lành. Ta ở thị
trấn về nhìn thấy mà phát ngán. Phần
đông ăn thiệt tình, không bài bản, thanh
cả nh như người thành phố. Ðất
đai không phì nhiêu, lại đông dân, thời
tiết bất thường, mưa gió, bão
lụt liên miên, nên người Quảng phải
cần kiệm theo câu châm ngôn: "Ăn
chắc, mặc bền" và "ăn bữa
ni, để dành bữa mốt". Khoai Ðầu tiên, phải nói ngay là người
Quảng thích món khoai lang. Lúc đầu bắt
buộc phải ăn khoai lang thế cơm hay khá
hơn ghế cơm (độn cơm). Nói độn
cho có chữ nghĩa đẹp chứ khoai lang
chiếm hai phần ba, hay có khi chiếm bốn
phần năm rồi. Tối ăn khoai đi
ngủ, sáng ăn củ đi làm Rồi thành thói
quen thích món khoai lang và tìm cách cả i thiện
giống, cho đến khi có được
giống khoai ngon. Còn nếu cứ ăn cơm
thoải mái thuần gạo thì: Không khoai lang thì mang lấy nợ!
Mà khoai trong tỉnh ở đâu ngon, nổi
tiếng nhứt? Trên trời, dưới khoai lang,
không ngoài Trà Ðõa. Trà Ðõa là một địa
danh vùng biển thuộc phủ Thăng Bình
(Quảng Nam). Khoai lang trồng ở đây ngon
nhứt, tiếng tăm lẫy lừng trong
tỉnh và đồn ra tới Huế. Quan lại
cấp thấp ở tỉnh nhà ra tới Kinh là
trong phần quà cáp luôn luôn có mặt khoai lang Trà
Ðõa. Chẳng là các chức sắc và giới quý
tộc ở Kinh cao lương mỹ vị
suốt năm nên phải ở bữa bằng
khoai lang bột, tươm mật Trà Ðõa (Tiên
Ðõa đọc trại ra), củ to bằng
bắp vế người lớn, phải cắt
ra từng khoanh đem hấp. Lát khoai nổi
bột, mật tươm trên mặt. Ăn nghe bùi,
ngọt, thơm lạ lùng. Thường ăn
với cháo, với canh hến, sáng thì ăn
với cá kho, thịt kho... Buổi sáng thuở
nhỏ, ăn được một lát khoai là
đã thấy no bụng, yên tâm đi học. Nghe
nói ngày nay đã mất giống vì chiến tranh
liên miên và cũng vì trồng trọt phải săn
sóc rất tỉ mỉ, tốn nhiều công
sức và thời gian. Còn các củ nhỏ (khoai
ở các địa phương khác cũng ngon)
sau khi thu hoạch, các củ lớn bám vào các
rễ lòng thòng, tròn, to bằng trái chanh, đem
gọt vỏ sạch, ngâm vào chậu nước
đã được quậy vôi a (n trầu. Sau
đó đem đường bát bỏ vào
chảo sên, với một ít gừng sắt
sợi, rồi đổ khoai vào ngào. Chín múp,
khoai nứt ngọt, giòn, thơm mùi gừng. Khoai
ngào kiể u này có một mùi vị khó quên... Còn
tụi nhỏ chúng tôi, cách đây gần 70 năm,
moi đâu được một mớ khoai củ
nhỏ, giấu người nhà đem lùi tro nóng,
cháy sém cả vỏ, gắp ra (nóng lắm!)
vừa thổi vừa lột vỏ ăn là khoái
khẩu nhất. Nhứt đậu phụng rang,
nhì khoai lang nướng Trăng rằm đã
tỏ lại tròn Khoai lang đất cát đã
ngon, lại bùi. Những tốp công cấy, công
gặt đến thời vụ rảo qua
những làng cần lao động. Hỏi cơm
ăn ghế mấy phần khoai, mấy phần
gạo. Nếu khoai ít quá họ không chịu làm,
vì ít khoai cơm ăn sẽ lạt lẽo, không
đậm đà, ăn không được
nhiều. Ngay ở thị trấn, có một
số nhà gần chợ, đông con, cũng
ghế khoai, ghế ba ('p, ghế đậu (đậu
đen, đậu đỏ) vào cơm, cũng là
biện pháp tiết kiệm trong những ngày mưa
gió liên miên, buôn bán ế ẩm - Món khoai
trụng là khoai vỏ đỏ ruột vàng,
luộc chín, xắt lát theo chiều dọc, phơi
khô để dành ăn lần. Mấy bạn
ở quê xuống học thường mang theo
ăn, thế quà vặt. Thỉ nh thoảng có
chia cho các bạn ngồi gần nhau ăn cho đỡ
buồn. Như trẻ bây giờ nhai kẹo cao su
vậy. Lâu lâu chiều thứ năm (thường
nghỉ học) và chiều chủ nhật, có nhà
nấu khoai lang khô với đường bát làm
một món quà ngọt, ăn vào giờ xế...
Khoai lang khô còn được ghế cơm... Mít Ở Quảng còn có câu hát: Ai về đất Quế làm dâu Mít ở đây là mít non. Mít
ở vùng gò nổng dễ trồng, lại tươi
tốt. Các vùng này thường thiếu gạo,
mít được chở xuống phố (Hội
An) bán lấy tiền mua gạo. Ở chợ
phố trước kia, từ chợ trên bước
xuống mấy bực cấp là tới chợ
giữa, mé tay trái có một khu vực gọi là
chợ Gò, bán chủ yếu mít chín, mít non và các
loại trái cây; bòng (bưởi lớn nhưng
ăn the), trái xây, ổi, chuối, thị, sim,
bứa mọc ở vùng đồi, nổng... và
chuối, xoài cơm (hột lớn, ít cơm)... Ai về nhắn với họ
nguồn Mít non kho với thịt, với cá
là chuyện thường ở các bữa ăn
của người Quảng. Mít còn dùng để
nấu canh. Dù có nem gà, chả vịt, cũng
mớ rau canh mít già. Ngoài ra trong các món cơm
chay, mít non cũng chiếm một vị trí ưu
thế. Do tài khéo léo của người nấu,
thưởng thức mà không phân biệt
được món nào chay, món nào mặn. Sau cùng,
mít trộn cũng khá hấp dẫn, gần đây
món này được nâng cao và cải tiến vào
ngồi trong mấy quán đa (.c sản ở Sài
Gòn. Cũng được đánh giá là khá ngon và
lạ miệng, đáng "đồng tiền bát
gạo". ở tỉnh nhà, mít non trộn
với rau răm, đậu phụng rang với
một vật liệu tùy sở thích: da heo
luộc, thịt gà luộc, tép sấy, nhộng
tằm, với tôm thịt... (ở Quảng không
có tôm khô, chỉ có tôm nhỏ sấy khô, ăn
thấy khác tôm trong Nam) . Và phải nhắc đến
một món dân dã khác, phổ biến ở vùng
lổm chổm đồi nổng. Mít non muối
dưa chấm nước cá, nước thịt,
mắm nêm, mắm mòi... cũng bắt cơm
lắm! Mắm Người Quảng là một tay
khét tiếng vế ăn mắm: người vùng
cao, như người đồng bằng và
cả người ven biển. Mà lại ăn
rất mặn. Ăn gần nguyên chất, không thêm
đường, pha chanh, pha giấm. Nhiều khi có
mắm với rau là ăn được cơm
rồi. Cho nên xưa kia có một số chủ
điền tránh dọn mắm trong bữa ăn
cho công cấy, công ga (.t... vì sợ hao cơm!
Mắm là một loại thực phẩm nhiều
đạm (đạm hữu cơ) để dành
được lâu: Chiều chiều ra đứng ngõ
sau Người Quảng cũng kho
mắm nhưng là mắm cá biển và không công
phu, không quá dồi dào gia vị như người
miền Nam kho mắm cá sông, cá đồng. Cá sông,
cá đồng không đủ để ăn tươi,
có đâu dư giả mà đem làm mắm!
Mắm cá mòi kho với thịt mỡ rục nát,
vớt xương ra, chấm đọt lang, rau
muống hoặc bông bí luộc. Mắm nêm có khi
kho với thịt mỡ hoặc mỡ không để
chấm rau. Có khi ma ('m dưa (không phải dưa
mắm trong Nam - dưa gang muối trong mắm
đồng) là dưa gang, củ cải, đu
đủ xắt lát bỏ mắm nêm, đem kho
với thịt mỡ, chấm rau. Người
Quảng chưng cá nục, cá chuồn thính
với thịt mỡ, có nước chấm rau
lang, rau muống, chấm cà dĩa xắt lát, có
khi kèm theo khế. Người Huế thường
nêm mắm ruốc (lọc lấy nước
trong) vào rất nhiều thức ăn: cá kho, tôm
rim và cả một số canh... Người Khmer
trong Nam thường nêm ma ('m bù hóc vào nhiều món
ăn thì người Quảng Nam lại nêm
mắm cái vào một số thức ăn.
Chẳng hạn có món thịt bò nấu với
đọt lang, nêm mắm cái. Thấy lạ, có
người sợ tanh. Nhưng ăn vào thấy
hấp dẫn, ngon miệng. Bẹ môn nấu
với xương heo hay cá tràu (cá quả, cá lóc
nhưng nhỏ hơn nhiều) cũng nêm mắm
cái. Trong Nam có món Xiêm lo, một loại canh
nấu theo người Khmer. Bắp xắt
nhuyễn mướp non xắt lát mỏng, lá
mồng tơi, bình bát, người Khmer nêm
mắm bù hóc. Người Việt nêm mắm
sặt. Tùy theo địa phương, có người
bớt một số rau, thêm vào cọng bông súng...
Ăn lạ miệng, cũng bắt cơm
lắm! Mắm cái (mắm nêm) dùng để
chấm thịt luộc, bánh tráng giập,
thịt nướng bánh ướt, cuốn bánh
tráng cá nục luộc, mực luộc, thịt bò,
thịt bê thui. Mắm còn pha gừng giã nát,
dầm cá rô chiên giòn. Xin kể sơ một
số mắm ở Quảng: mắm thính cá
nục, mắm thính cá chuồn, cá cờ, mắm
thính cá liệt hột dưa, mắm cá ngừ
bỏ cà, mắm ruột cá ngừ, mắm hàu,
mắm nhum (cầu gai), mắm cá thu, mắm
mực, mắm mại (con mại giống còng gió
trong Nam) còn được gọi là "mắm
nhà nghèo", không ai làm, ai bán, mình muốn ăn
thì tự đi bắt lấy rồi đem
về làm; mắm dảnh, mắm rất ngon, cá
dảnh đánh bắt được rất ít,
giá cao, làm cốt để bán cho nhà giàu lấy
tiền mua gạo, rồi nhà giàu cũng không dám
ăn, đem ra Huế biếu xén những nơi
ơn nghĩa, quan quyền. Ngư dân giữ
lại đầu và bộ xương cá, băm
nát, làm ra một loại mắm thứ yếu, không
có thịt., chỉ nước với xương,
gọi là mắm dè. ở Quả ng, ngoài mắm
ruốc, có mắm tôm, cách chế biến và hương
vị khác mắm tôm ngoài Bắc, khác mắm tôm
chua nổ i tiếng xưa nay ở Huế và cũng
khác mắm tôm thường và mắm tôm chà
ở Gò Công. Mỗi thứ đều mang hương
vị rất riêng, thích hợp cho vị giác
mỗi địa phương. Sau cùng làm mắm
mực (từ Nha Trang đem ra) kho tôm thịt và mắm
mòi dầu nhập từ Phan Thiết. ở
những nơi này, mực và cá mòi rất
dồi dào, dư giả mới đem đi
muối ma ('m... Hến Có thể nói hến là thức
ăn vừa rẻ, vừa ngon và qua chế
biến đã nuôi sống cư dân tỉnh
Quảng khi họ bắt đầu du nhập
từ các tỉnh miền Bắc vào Quảng
hồi đầu thế kỷ 15. Các cồn
nổi trên sông đều có hến, sông Thu
Bồn, sông Vu Gia, sông Bà Rén, sông Trường
Giang, sông Hàn, sông Thủy Tú, sông Trương Ðịnh...
đã cung cấp thức ăn cho dân quanh năm
suốt tháng, trừ những ngày lụt bão, mưa
to gió lớn, không đi cào được. Lấy chồng về đất
Mỹ Xuyên Thật vậy, hến cào không khó
lắm, chế biến cũng đơn giản.
Mua một tô hến có nước, có cái, có khi
chỉ hâm nóng nêm nếm mắm muối, tỏi,
hành, ăn với bún, với cơm nguội,
với bánh tráng bóp nhỏ, với bắp hông
mềm, với khoai lang hấp. Nấu canh với
cải tàn ô (cải cúc), rau muống, đọt
lang, với rong sợi (rong chỉ, còn gọi là
mứt), nước rất ngọt, rau lại tươi
xanh. Tùy thích, nấu canh hến với bầu,
với dưa hường, cũng là một món
ăn giải nhiệt trong mùa hè oi ả. Canh
hến với bông lý, theo các cụ, là một món
ăn an thần, trợ tim rất hiệu quả.
Hến xào với hành tây, rau răm, rắc đậu
phụng rang là một món có cỡ... Sau cùng, cháo
hến là món nhiều người thích, dễ
nấu, lại ngon và bổ ... ở Quảng không
thấy món cơm hến, nấu theo kiểu
Huế, tỉ mỉ, bài bản và phức
tạp, chỉ xuất hiện ở đất
vua chúa cung đình. Cá Người Quảng tiêu thụ
nhiều nhứt là cá biển. Những vùng sâu, vùng
cao cũng ăn cá biển mà cá hấp trước
kia được chuyên chở trên vai bằng
đôi gánh, đi từng trạm. Có người
sẵn sàng đứng đợi, gánh tiếp
đến trạm khác. Họ đi mau như
chạy bộ. Bấy giờ làm gì có xe hơi,
xe máy, xe lam... Trong câu hát, câu hò, nói về các
thức ăn ở Quảng thì món cá được
nhắc đến nhiều nhứt: Thương em vì cá trích ve Vì rau
muống luộc, vì mè trộn măng. Ngồi
buồn nhớ cá trích ve Nhớ bát nước chè,
nhớ chén đường non Cá trích ve thịt ít nhiều xương
nhưng rất ngon, rất béo, rất thơm. Kho
rục hay chiên giòn, ăn cả xương. Người
Quảng uống nhiều nước vì ăn quá
mặn. Thường uống nước chè tươi,
uống từng bát, từng tô lớn, uống nóng
hổi, rót từ cao xuống bát phải nổi
bọt mới ngon. Còn đường non là
đường mật, sền sệt, chưa thành
đường cứng. Ăn rất ngon, chưa
qua khâu gạn lọc ba (`ng hóa chất. Cá trích mà
kho với thịt là món ngon: Nhớ hồi cá trích y con Thịt
heo cắt khúc, lòng còn ước mơ... Măng
giang nấu cá ngạch nguồn Ðến đây nên
phải bán buồn mua vui. Cá ngạch xương đầu
rất cứng, dạng giống cá chốt trong
Nam (vùng Bạc Liêu), đến mùa lụt từ
nguồn đổ về đồng bằng,
thịt béo, lòi cặp trứng vàng hườm dưới
bụng. Kho nghệ, khế, chuối chát nấu
canh chua ma (ng rất ngon, ăn trong mùa bão lụt.
Cá mè nhỏ cũng nấu canh chua: Canh chua nấu cá mè ranh Cay, chua,
mặn, ngọt chớ đành bỏ nhau. Nhứt
là miếng chả cá chim Nhì ngọn lang luộc,
ba thêm cá mòi. Ở Quảng đâu phải
chỉ có chả cá chim mà còn có chả cá
mối, cá thát lát, cá rựa, cá lạc và sang hơn
là chả cá thu, ăn rất giòn và rất ngon.
Về cá mòi còn có câu hát: Trên non túc một hồi còi Nhứt ngon là đầu cá gáy Nhì
thơm là cơm cháy vừa than. Cũng như cá
ngạnh nguồn, cá gáy (cùng họ với cá chép,
còn tên lý ngư) mình tròn mập, thịt béo,
đến mùa lũ từ nguồn, suối trôi
về xuôi, được đánh bắt. ở
phố nhà nào có thờ Ông (Quan Công), kiêng không dám
a (n, vì cho gáy là loại cá thần thánh, vượt
vũ môn để hóa rồng... Cá kho với
nghệ, khế, chuối chát ăn rất béo,
rất thơm. Nhứt là cái đầu: một năm
chỉ có một số ngày có cá gáy, nhằm vào
những lúc mưa gió dầm dề, trời se
lạnh... Ăn cá gáy rất ngon, rất thú
vị. Say mê một đối tượng mà
phải bỏ vợ, không phải vì nhan sắc
"chim sa, cá lặn" của một người
đàn bà, nhưng vì người đẹp có
biệt tài nấu những món ăn quá ngon: Cá nục nấu với dưa hường Bữa cơm sui (thông gia) không
bằng cái mui (môi) con cá chuồn Cấy ruộng
đầu cầu, ăn đầu cá đối. Ruộng đầu cầu là
ruộng tốt của nhà giàu. Ðến đầu
cầu thường mua được cá đối
(cá đối sông ngon hơn cá đối
biển). Cụ Tản Ðà - một nhà thơ
rất sành ăn - đã từng ca tụng cái
ngon tuyệt vời của đầu cá đối
miền Trung Trung Bộ. Cơm trì với cá rô chiên Cơm trì là gạo trì, một
loại gạo ngon ở Quảng. Cá rô Quảng có
gì lạ? Trong Nam cá rô câu, đến mùa nước
rút đã lớn lại mập nùng nục,
thịt béo. Sau 38 năm xa cách, tôi về lại
Quảng, tìm ăn các loại cá, thấy cá rô
tỉnh nhà nhỏ và ốm hơn nhiều, nhưng
chiên ăn ngon đặc biệt, đậm đà
một hương vị độc đáo. Có
lẽ thổ ngơi, khí hậu đã sản sinh
ra hương vị đặc biệt địa
phương. Lòng thủy chung; cái tình nghĩa khi
giàu sang vinh hiển không quên lúc nghèo khó, khốn
khổ; rồi tình đồng bào và lời kêu
gọi thương yêu, đùm bọc được
lồng vào một số câu hát về ẩm
thực xứ Quảng: Ăn tiêu thì nhớ đến hành
Dù ăn nem gà, chả vịt, thì cũng nhớ
tới rau canh mít già. Canh chua nấu cá mè ranh Cay,
chua, mặn, ngọt chớ đành bỏ nhau! Cá
sông kho với lá gừng Bà con mình đó, xin
đừng quên nhau! Món ăn
ở phố cổ Hội An Vào đầu thế kỷ 19 người Hoa, Nhật đến Hội An trao đổi buôn bán hàng hóa qua đường thủy. Lúc này các hàng quán ăn uống kiểu á Châu sang trọng, hơn hẳn Ðà Na (~ng đều được mở ra ở Hội An, vì thời ấy có Tòa sứ với những người làm việc lương cao, những nhà buôn bằng đường thủy về xuất nhập khẩu. Ðây là thời kỳ mà người Hội An đang phát triển mạnh nghề buôn ghe vào nam ra bắc. Nổi bật là các làng xã sống hai bên dòng sông Thu Bồn còn giàu có, nên suốt ngày đêm, ghe thuyền tấp nập, dọc bờ sông, cho tới hai ba giờ chiều, khách hàng chờ gió thuận chiều về ngược còn chen chúc chất hàng. Do có nhiều dân buôn tới lui, từ cấp giàu sang nhất tới những nhà buôn lẻ trong thôn ấp, nên từ các món ăn cao lương, mỹ vị đến các thức ăn rẻ tiền đều được bày bán. Ngoài món Yến sào sang trọng của Cù Lao Chàm, cao lâu đài các dành cho các phú thương, còn thường là những món ăn phổ biến. Lạ một điều, như một đặc ân trời cho, cá, mực, tôm, cua của Hội An rất ngon. Cua, nhất là cua gạch xuất hiện những đêm không trăng, vẫn lôi kéo được những người sành ăn từ các miền đổ tới. Những khách ít tiền đến Hội An đều nhớ món Cao Lầu (không phải Cao Lâu) mà người dân Quảng Nam nào cũng xem như dấu hiệu đặc biệt của Hội An. Cao Lầu khác hẳn Mỳ Quảng vì không phải tráng bằng bột gạo mà cán bằng bột gạo ngâm nước tro, qua ba lần lửa (tro xưa kia được lấy từ củi gỗ Cù Lao Chàm), nên mình bánh cứng và có mầu vàng nhạt tự nhiên. Trên những sợi cao lầu, chỉ là thịt xá xíu, ít tôm mỡ, sợi mì chiên ròn, giá. Nhưng nếu ai sành ăn, cũng biết ngay cái hương vị riêng biệt của món ăn. Nhiều người cho biết chỉ có một số giếng nước ở Hội An mới có thể tạo ra sợi cao lầu. Trông thì dễ, nhưng hiện nay ở phố cổ này, chỉ còn ít nhà làm được. Cao Lầu không có mùi vị đặc sản Việt Nam, nhưng cũng không ai chứng minh được nó là món ăn của người Hoa, người Nhật sống tại đây. Một điều lấy làm lạ là Cao Lầu Hội An nổ i tiếng từ xưa đến nay, nhưng Cao Lầu chỉ có ở Hội An mà không xuất hiện ở bất kỳ nơi nào khác. Mì Phú Chiêm mà nay ở khắp miền nam nơi nào có người Quảng Nam sinh sống lập nghiệp đều có bán và được mang tên mới "Mì Quảng" từ mấy chục năm nay. Mì làm bằng bánh tráng ướt xắt thành sợi có pha mầu vàng lợt. Ngày nay, các bạn trẻ và du khách đến Hội An thường dẫn nhau qua cầu Cồn Cẩm Nam để ăn "bánh tráng đập dập". Nói về cồn này, chúng ta nên nhớ trước 1954, chưa thấy xuất hiện hoặc chỉ mới có dấu hiệu đất bồi. Thế rồi những người đi theo kháng chiến từ 1954 trở về, bỗng thấy cả một làng nổi lên như một sự ngạc nhiên. Khách tới chân cầu Cẩm Nam sau một giờ sáng thì sẽ gặp chợ Âm Phủ. Chợ họp trong ánh sáng mờ tỏ, người đến chợ để mua rau, dưa. Hến là món ăn quen thuộc, rẻ tiền mà phần lớn người Hội An và người sống hàng chục cây số quanh đó yêu chuộng. Hến được bán trong những cái hù với bên trên là rá hến luộc điểm xuyết lá hành, những khoanh ớt đỏ thắm. Các bà nội trợ hai bên phố đón mua hến để ăn vào buổi trưa. Ngày thường, các chàng trai cũng bán cả loại bánh chưng, ngày Tết bán thêm bánh tổ, bánh tét. Ðặc biệt, Tết Ðoan Ngọ (5-5 âm lịch) hàng hàng, lớp lớp bánh ú tro của phố cổ Hội An bán tràn ngập Ðà Nẵng và kéo dài cả tháng sau. Hội An xưa kia có nhiều thứ bánh. Nay người ta còn chuộng các loại bánh đậu xanh ướt, và khô có nhân thịt. Bánh này được những người gốc địa phương ở TP Hồ Chí Minh, Paris (Pháp) hay Mỹ... sau lúc về thăm quê hương hay mang làm quà cho bà con, bạn bè. Bánh susê, bánh ít lá gai... cũng đều được ưa chuộng. Các loại bánh có gốc gác ngoại quốc như quai vạc, trải qua nhiều thế kỷ, được người Pháp mệnh danh "Bông hồng trắng" (La rose blanche). Loại bánh này có nhân chả tôm quết nhuyễn, vỏ được làm bằng bột gạo trắng tinh xinh xắn. Hiện Hội An chỉ còn một gia đình sản xuất để bán cho các nhà hàng; bánh chấm với nước mắm pha loãng. Nhiều du khách đến phố cổ Hội An đã hỏi: Sao không mở một tuyến du lịch "Hội An ẩm thực" với những món ăn ngon và lạ rẻ tiền trong phong cảnh hữu tình dễ thương ấy, nhỉ? anphuvang - QuangDa-Yahoo Groups
|