NẠN
ĐÓI NĂM ẤT DẬU 1945
Hương
Vĩnh
BỐI CẢNH
LỊCH SỬ
Năm Ất Dậu 2005 đánh dấu 60 năm
chẵn, kể từ khi nạn đói
khủng khiếp xảy ra vào đầu năm
Ất Dậu 1945. V́ nạn đói khủng
khiếp đó xảy ra trong khung cảnh
thế chiến II nên không một tài liệu
nào được lưu lại. Ngay cả
số người chết đói cũng không
để lại một dấu vết
thống kê nào. Những ư kiến của các
học giả ghi nhận dưới đây
phần lớn phát xuất từ kư ức
họ hay nghe những người đáng tin
cậy kể lại. Tất cả những
vị nầy lúc thiếu thời đă kinh
qua nạn đói đó. Và những điều
họ trích dẫn - nhất là tổng số
người chết đói - mức độ
chính xác đến đâu cũng không
thể kiểm chứng được.
Cả miền Bắc Việt-Nam lúc bấy
giờ - khoảng cuối năm 1944 đến
giữa tháng 5 năm 1945 - đă phải gánh
chịu quốc nạn nầy. Số người
chết đói ước độ trên dưới
hai triệu người, so với khoảng
gần hai mươi lăm triệu đồng
bào lúc bấy giờ, tức gần một
phần mười dân số. Riêng đối
với Bắc kỳ vào thời điểm
đó có trên sáu triệu dân: như vậy
tỷ lệ số người chết đói
lên đến một phần ba. Ai là người
chịu trách nhiệm về tội ác ghê
gớm nầy?
Thi sĩ Bàng Bá Lân (1) đă ghi lại
cảnh chết đói kinh hoàng đó như
sau:
“Năm Ất Dậu tháng ba c̣n nhớ măi
Giống Lạc Hồng cực trải
lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy
đường,
Rồi ngă gục không đứng lên v́…đói!”
Trong thiên hồi kư ngày 12-11-2004 (2) viết
tại Dayton, Ohio, giáo sư Đỗ Hữu
Nghiêm đă ghi nhận:
Kỷ niệm 60 năm nạn đói
khủng khiếp 1945 mà dân chúng Việt-Nam
ở đồng bằng Bắc kỳ
phải gánh chịu, chúng ta cũng nên ôn
lại sự kiện đau thương đó
đối với số phận đất nước
trong bối cảnh Thế Chiến II
(1939-1945). Ngoài nạn đói, cộng đồng
Việt-Nam c̣n phải chịu biết bao tai
ương khác như một cổ đôi tṛng
(Pháp-Nhật), các lực lượng phe phái
kháng chiến tranh giành ảnh hưởng,
bom đạn khắp nơi của các bên lâm
chiến (quân đội Đồng Minh và Phe
Trục), mối đe dọa hằng năm
của cảnh lụt lội và vỡ đê
ở hệ thống sông Hồng. Có lẽ
trong lịch sử, chưa bao giờ dân
Việt lại chịu một tai nạn
thảm khốc như thế về số người
tử nạn và qui mô của vùng bị tai
nạn.
Nếu nói trận đói năm Ất Dậu là
một tai nạn nhân văn, chết người
tập thể vô tiền khoáng hậu cũng
không ngoa, v́ có lẽ chỉ thua kém những
thiệt hại về nhân mạng và tài
sản của cuộc chiến hai phe
Quốc-Công từ năm 1945-1975, trải dài
30 năm. Nhưng về số người
bị nạn xảy ra trong một thời
gian kỷ lục th́ sự kiện Nạn
Đói năm Ất Dậu vẫn độc
nhất vô nhị cho đến nay.
DIỄN TIẾN QUI MÔ NẠN
ĐÓI
T́nh h́nh chung ở miền
Bắc Việt-Nam
GS Lưu Công Thành cho biết những tháng
đầu năm 1945, trên các nẻo
đường chính ở những đô
thị lớn tại miền Bắc, hằng
đoàn người già trẻ, lớn bé
thất thểu dắt díu nhau đi cầu
thực, tất cả chỉ c̣n da bọc xương…Ở
một vài nơi có Hội từ thiện
tổ chức phát cháo cứu trợ, nhưng
có người nhận cháo rồi vẫn lăn
ra chết v́ quá kiệt sức! Thật là
một cảnh tượng thương tâm…
Thời điểm xảy ra nạn đói
nhằm vào mùa đông nên cứ mỗi đêm
sáng ra lại có thêm rất nhiều người
là nạn nhân của tử thần. Người
chết nhiều đến nỗi Sở
Vệ Sinh và Bệnh Viện thành phố
phải thuê xe ḅ đi hốt xác và cho
nhiều đơn vị tư nhân đấu
thầu việc nầy. Hậu quả là dân
chúng một số nơi đó gần như
giảm đi quá nửa, một phần
chết đói tại sinh quán, một
phần bỏ làng ra đi rồi không bao
giờ trở về nữa.
Tất cả dẫn đến t́nh trạng
thiếu hụt sức lao động và
ruộng canh tác bỏ hoang rất nhiều. Chăn
nuôi cũng bị ảnh hưởng
nặng, gia súc (kể cả chó) không c̣n bao
nhiêu do bị giết chết để
lấy thịt! Thậm chí có một số câu
chuyện kể lại đă có hiện tượng
bắt cóc trẻ con để lấy
thịt. Một nhân viên tại Sở
Cảnh Sát Hải Pḥng thừa nhận như
vậy, tuy nhiên chính quyền không xét xử
công khai v́ sợ ḷng dân hoang mang.
Những người đói rách đi nhan
nhản kiếm ăn v́ thiếu đồng
ruộng canh tác, thiếu lúa gạo, rồi
dần dần chết lả v́ đói ở
các cánh đồng và đường làng
khắp nơi trong các tỉnh phường xă
làng xóm ở nông thôn và thành phố. Có nơi,
người đói c̣n vào cướp phá kho
chứa lúa gạo của người giàu
trong làng. Ngoài người cư ngụ sinh
sống từ trước tại vùng đồng
bằng miền Bắc, c̣n có nhiều người
từ miền Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh
đi ra ăn xin.
Nạn đói ở Hà
Nội
Theo GS Đỗ Hữu Nghiêm th́ tại Hà
Nội, nhiều xác người chết đói
nằm ngổn ngang trên các đường
phố. Mỗi sáng sớm người ta
phải đem xe ḅ chở những xác
chết đó đi chôn. Có người đi
ăn xin, đói lả giữa phố, đêm
đến, nằm dựa lối cửa ra vào
hay bờ tường các căn phố.
Nhiều người sáng sớm vừa
mở cửa th́ xác chết đổ
kềnh sang một bên, có khi ngă lăn vào phía
bên trong nhà, khiến người nhà kinh
hồn khiếp vía!
Ở Tràng Tập Hà Nội có khoảng 120 chú
chủng sinh, các chú được nhà trường
cho ăn mỗi ngày chỉ có một bữa
tạm no với môt chén cơm đầy, c̣n
hai bữa kia, ăn cháo với cám xay. Có chú
tuy đói, nhưng cũng không chịu ăn
cám, v́ khó nuốt, đă đổ đi
hết. Thực ra Ban Giám Đốc Tràng
Tập cho các chú ăn cháo với cám, v́
muốn cho có đủ chất bỗ do cám
mang lại.
T́nh h́nh đói ở Hà Nam
Tại quê quán của GS Đỗ Hữu Nghiêm
là làng Ḥa Khê, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà
Nam, khu vực giáp ranh với huyện Phú Xuyên
tỉnh Hà Đông, cách Hà Nội 45 cây
số, bày ra cảnh thương tâm của
những người đói ăn, thiếu
ruộng cày, phải đi lang thang xin ăn.
Khi không thể xin ăn được, người
đói lả nằm ngă lăn bừa băi
khắp nơi ở giữa hay bên đường,
trên đồng ruộng, trước cửa
nhà, đủ kiểu ṃn mỏi, rồi
chết tất tưởi trong t́nh cảnh
tứ cố vô thân, rách rưới. Số
người chết đông đảo đến
nỗi chôn không xuể, khiến bị
nhiễm trùng và có nơi đă bị ôn
dịch.
Ở bên kia con sông đào đầu làng Ḥa
Khê, nối sang đồng ruộng là Tè Mũ,
Mai Trang, Thần Nữ có một cây cầu
tre. Rất nhiều người chết la
liệt ở cả hai bên sông. Những người
c̣n khỏe mạnh rủ nhau đi sang bên
đó thu lượm những xác chết c̣n
lại, đào vội một hố lớn không
sâu lắm ở cạnh cầu và đem chôn
vùi như ma đuổi trong chiếc hố
tập thể. Trong số đó có cả
những người c̣n ngắc ngoải, chưa
chết hẳn, c̣n rên lên: “Đừng chôn
sống chúng tôi, để chúng tôi chết
hẳn đă”. Bất chấp những
lời than văn đó, những người c̣n
khỏe mạnh cứ lấp đất
vội vàng trên những thân thể c̣n chút hơi
sống đó và tiếng kêu chỉ tắt
hẳn cho đến khi những tảng đất
định mệnh bên bờ sông được
lấp đầy!
H́nh ảnh đó ám ảnh đám trẻ con
nhiều tháng trời và mùi hôi trong nấm
mồ tập thể xông lên…đến
tận giấc mơ hăi hùng trên giường
ngủ, trong những câu chuyện rùng rợn
hù dọa nhau trên cửa miệng mọi người
hằng ngày. Những người giàu tưởng
tượng c̣n đe dọa nhau, kể
chuyện nghe thấy những tiếng khóc
nỉ non rưng rức của oan hồn
những người bị chôn sống
mỗi lần đi qua cây cầu tre vắt
ngang qua con sông đào cô quạnh đó.
Cũng đầu cầu tre bên làng, có
một thanh niên gần chết nằm im ĺm
đầu xóm ngay giữa ngă ba đường
v́ không c̣n hơi sức cử động.
Đám trẻ tinh nghịch trong làng chạy
đến xúm xít bu quanh xem người
nằm đói đang hấp hối. Đó là
một thanh niên c̣n trẻ nhưng trông như
một ông già, quần áo tả tơi, rách nát,
nhăn nheo, chỉ c̣n da bọc xương,
để lộ cả phần thân ḿnh phía dưới.
Một đứa trẻ tinh quái, nghịch
độc, bẻ một cành tre rồi đâm
thọc. Thân thể đáng thương kia
chỉ giật giật nhè nhẹ, chắc có
vẻ đau đớn mà không phản
ứng ǵ được. Một chú bé đứng
gần đó bịt mặt, với đôi
mắt đỏ hoe sợ hăi vội quay
đi, chạy trốn về nhà.
Cảnh đói ăn ở
Thái B́nh
Giám Mục Bùi Tuần kể lại (3):
chiều hôm ấy, đi bộ từ Thái B́nh
về Thượng Phúc. Đường
vắng, thỉnh thoảng gặp những thân
người tuy ốm o, lê bước,
ngẩn ngơ, mệt mỏi, đi kiếm
ăn. Họ đi một ḿnh hay đi chung
gia đ́nh, t́m bới kiếm ăn ở
những đám cỏ hay những đống
rác bụi cây.
Đến gần một bờ sông, Giám
Mục Bùi Tuần thấy ba người
gầy guộc nằm bất động.
Một phụ nữ trẻ tuổi tuy đă
chết, tay vẫn c̣n ôm đứa con
nhỏ cũng đă chết, nhưng
miệng vẫn c̣n ngậm vú mẹ. Một
người đàn ông trẻ tuổi nằm
sát bên đứa nhỏ đă chết, nhưng
tay anh như đang cố với t́m chiếc
chiếu rách cạnh bên, để đắp
cho vợ con. Anh ngấp ngoái chết!
Theo GS Lê Văn Lăng, vào thời điểm
đó Thái B́nh được mệnh danh là
“vựa lúa” của miền Bắc với
những cánh đồng “c̣ bay thẳng cánh,
chó chạy cong đuôi”. Nhưng trớ trêu
thay, chính ở trên mảnh đất ph́ nhiêu
đó, cái đói đến với tầng
lớp “lê dân” mới thật dữ
dội kinh khiếp nhất, vượt quá
sức chịu đựng b́nh thường
của con người. Tất cả những
ǵ ăn được người ta đă
ăn hết rồi, đến lượt
gia súc chó mèo cũng phải “hy sinh” cho bao
tử của chủ.
Sau khi không c̣n ǵ bỏ vào bụng nữa, người
dân lam lũ bắt đầu ùn ùn kéo nhau vào
trung tâm thị xă với áo quần rách rưới.
Có người gần như trần
truồng, v́ đă bán những bộ áo
quần lành lặn để đổi
lấy gạo ăn. Cái đói cái rét như
cắt thịt thúc giục họ tiến bước
về phía trước. Những người
đói quá lả gục xuống để
rồi không bao giờ trỗi dậy nữa.
Hai bên đường, thây người
chết đói ngă ra như rạ. Dù vậy,
họ vẫn đổ xô về thị xă Thái
B́nh bất chấp một ṿng đai linh tráng
bao quanh khu vực thị xă ngăn cản.
Thời điểm đó, GS Lê Văn Lăng
dạy học ở trường tư
thục Pascal. Hôm nào đến trường,
giáo sư cũng nhặt được hai ba
xác trẻ em đă chết cóng từ đêm
trước và cùng với học sinh, mang
đi chôn sau trường.
Nạn đói ở
Kiến Xương
Một hôm, GS Lê Văn Lăng đi qua
Kiến Xưong, bắt gặp một người
đàn ông có dáng dấp lực điền
đang gánh một gánh khá nặng, phía trên
đậy một chiếc nón lá rách.
Bỗng nghe có tiếng như âm thanh của
trẻ sơ sinh. Th́ ra trong thúng có khoảng
chục em bé mới sinh c̣n đỏ hỏm
mà vài đứa đă chết. Người
đó gánh chúng từ một vùng làng xa xôi
định đến Duyên Hà gởi cho các bà
phước từ thiện chuyên nuôi trẻ
em mồ côi ở cách đó ba mươi cây
số. Nhưng nhà nuôi trẻ đă đóng
cửa từ lâu!
Tại chợ Kiến Xương lúc bấy
giờ, rất nhiều xác chết nằm la
liệt, trong số đó có một phụ
nữ đă chết không biết từ bao
giờ, nhưng đứa con vẫn c̣n
sống, đang bám vào ngực mẹ mà bươi
bươi đôi vú một cách cuống quưt
rồi nhai lấy nhai để không thôi. Sau
đó vài giờ em bé cũng chết, để
theo kịp mẹ về nơi chín suối
hầu thoát khỏi cuộc đời
khổ đau nầy!
Một bữa nọ GS Lê Văn Lăng có
dịp đi ngang qua Cầu Bo thấy có
vẻ khác lạ ở đầu cầu, người
ta ṭ ṃ đến xem. Th́ ra có khoảng ba
bốn gia đ́nh đang luộc thịt
những người hàng xóm để ăn,
xương tay xương chân vứt ngang bên
cạnh!
Ban đêm mùa đông rét mướt lạnh
lẽo, thỉnh thoảng nghe tiếng ré lên
của trẻ con. GS Lê Văn Lăng phóng
vội ra ngơ với cây đèn băo trên tay,
bắt gặp xác đứa trẻ bị người
lớn hút máu nóng với que tre cắm trong
cuống họng.
Cảnh phát bánh chưng
ở Thái B́nh
Một ông phú hộ trong vùng giúp cho nhóm
từ thiện của GS Lê Văn Lăng mười
tạ gạo nếp để gói bánh chưng
phát cho những người đói ăn, nhân
dịp Tết nguyên đán 1945 gần kề.
Rồi có nhiều người tham gia, kẻ
góp của, người giúp công… để
làm việc lợi ích cho cộng đồng.
Chiến dịch “làm và nấu bánh chưng”
thu hút hơn 500 người tự nguyện gói
bánh chưng và đă “sản xuất”
được hơn 6.500 bánh mà mỗi bánh
nặng khoảng một kilô.
Sau khi công việc nấu bánh chưng hoàn
tất th́ chuyện nhỏ “phân phát bánh”
cho những người thực sự đói
ăn đă trở nên một vấn đề
nghiêm trọng. Người ta nghĩ cách
đem bánh chưng ra khu nghĩa địa
rồi chỉ mở hé cổng cho từng người
vào thôi. Người nào được phân
phát bánh chưng sẽ đánh dấu + trên
tay. Ban đầu công việc có vẻ suông
sẻ và trật tự, v́ chưa có
nhiều người biết.
Nhưng độ nửa giờ sau, thật
quá đỗi kinh hoàng khi nghe thấy
tiếng chạy của hàng ngàn người
từ các làng lân cận kéo đến,
vừa chạy vừa la: “Phát bánh chưng
chưa! Phát bánh chưng chưa!” với âm
thanh ồn ào và náo nhiệt chưa từng
thấy. Họ leo tường vào nghĩa
địa một cách chóng vánh. Rồi hàng
ngh́n người chen chúc dẫm đạp lên
nhau và dẫm lên cả bánh chưng. Tiếng
người gọi nhau ơi ới lẫn
tiếng khóc thét của trẻ con trong khu
vực nghĩa địa mênh mông đó.
Khi đám đông rút đi, dưới
mặt đất nào là bánh chưng bị
dẫm đạp nát nhoẹt, có vài ba xác
trẻ em bị chèn đè dẫm đạp
đến chết. Khi c̣n lại vài bánh chưng
người ta phát cho các em quá đói,
gầy g̣ trần trụi đứng ngoài giơ
tay xin. Chúng vồ lấy ăn ngấu
nghiến cả lá gói.
Lúc bấy giờ các nhà giáo phải nhờ
đến ông Đốc Quưnh là một viên
quan trông coi về giáo dục toàn tỉnh Thái
B́nh. Sáng hôm sau, ông Đốc Quưnh đóng
bộ veston cà vát cẩn thận có batoong bên
cạnh, c̣n bà vợ th́ mặc áo dài. Hai người
đi trên hai chiếc xe kéo rất sang
trọng và chất lên mỗi xe độ 50
bánh chưng rồi lên đường
trực chỉ các làng xa xôi ở ngoại thành.
Khi chỉ đi ra ngoại thành được
non nửa cây số, xe của quan Đốc
và phu nhân bị đám đông níu kéo
lại.
Khi nghe tiếng la réo: “Phát bánh chưng! Phát
banh chưng!” vang lừng từ đầu thôn
đến cuối xóm, quan Đốc điên
tiết lên, dùng batoong phất lia lịa vào
đám đông để mở đường.
Nhưng xe vẫn không thể nào tiến
đi được v́ bị bao vây bởi hàng
trăm con người rách rưới đói
khát đă lâu ngày. Họ dẫm đạp,
chen lấn, dày xéo lên nhau để cướp
giật bánh chưng.
Khi tàn cuộc “phát bánh chưng bất đắc
dĩ”, hai chiếc xe kéo sang trọng đă
bị găy nát thảm thương. Hai ông bà
quan Đốc th́ quần áo rách bươm,
măt mày bùn đất bê bết ngao ngán
lắc đầu. Bánh chưng th́ rơi nhăo
nhoẹt lẫn với bùn đất. Anh
đánh xe th́ mặt mũi bầm tím,
cọng thêm xác vài ba đứa trẻ
kiệt sức v́ bị dẫm đạp
trong cơn hỗn loạn. Kể từ hôm
đó không ai thấy tăm dạng ngài Đốc
Quưnh đâu nữa.
T́nh h́nh nạn đói
ở Ninh Cường
Ninh Cường cách Trung Linh, Bùi Chu khoảng
hai mươi cây số đường
bộ, nằm ở giữa vùng Đồng
Bằng Bắc Việt. GS Đỗ Hữu
Nghiêm cho biết, theo lời kể lại
của linh mục Vũ Minh Thái: ở Nhà
Chung Ninh Cường lúc đó mọi người
chỉ được ăn một bữa. Trên
nhiều đường trong bờ ruộng làng,
Nhà Chung cùng với dân làng đựng lên
nhiều lều tranh tạm trú cho những người
từ các làng quê kéo đến xin ăn. Lúc
đó quân đội Nhật, dưới áp
lực súng ống lưỡi lê, ra lệnh
cho tất cả các nông gia phải đóng
thuế bằng hiện vật, tức
phải gánh hết thóc trong nhà đổ vào
các kho chứa của nhà nước.
Có cả trăm người lết đến
khu vực Nhà Chung Ninh Cường tạm trú
trong các lều tranh bên vệ đường
có dựng lều. Nhà Chung cho nhà bếp
nấu cháo, phân phát cho những người
đói ăn. Có người ăn được
bát cháo hôm trước th́ hôm sau lăn đùng
ra chết. Người chết xếp
chồng lên nhau cả hàng chục hàng trăm
không đếm cho xiết.
Người trong làng, ai c̣n khỏe mạnh th́
thường rủ nhau ra cánh đồng
đào những hố lớn rồi ném chôn
vùi xác chết xuống vội, lấp đất
sơ sài, v́ số người chết quá
đông chôn không kịp. Mùi hôi thối
của xác chết bốc lên nồng nặc
mấy tháng trời.
Một kịch bản thảm thương,
nghịch lư, nhưng lại rất khoa
học xảy đến trước sự
chứng kiến của những người
c̣n cơ may sống sót, nhất là các nông dân:
các vụ trồng lúa năm sau lại tươi
tốt và thu hoạch nhiều vô số
kể hơn bao giờ hết, chắc
nhờ nhiều xác chết đă thối
rữa thành phân bón hảo hạng cho đồng
ruộng ngập nước!
Nếu người Nhật Bản c̣n
thống trị châu Á Thái B́nh Dương sau
ngày 15/8/1945, th́ chính họ phải trở thành
những kẻ khai thác xác người tinh vi
tàn bạo chẳng khác nào quân phát xít Đức
khai thác các mạng người trong thế
chiến thứ II ở các trại giam và ḷ
thiêu người bên châu Au! Ngày 28/01/2005
vừa qua đánh dấu 60 năm chẵn
kể từ ngày 28/01/1945 là ngày mà quân đội
Đồng Minh đổ bộ lên Au châu
để giải phóng dân chúng nói chung và
nhất là người Do-Thái nói riêng
khỏi nạn diệt chủng do bọn quân
phiệt Đức chủ xướng.
NGUYÊN NHÂN XẢY RA NẠN
ĐÓI NĂM ẤT DẬU 1945
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu và phân tích
về các nguyên nhân dẫn đến nạn
đói năm 1945, người ta thấy có
nhiều t́nh tiết phức tạp.
GS Đỗ Hữu Nghiêm cho biết trong
bối cảnh thế chiến II, nạn
đói xảy đến với Bắc
Kỳ vào đúng lúc cuộc kháng chiến
chống Pháp diễn ra quyết liệt,
nhất là khi quân đội Nhật chiếm
đóng Đông Dương từ năm 1941
với những toán quân tuần tiêu từ
Trung quốc xung đột với quân
Việt Pháp ở đồn Tà Lùng, cửa
ngơ vào Lạng Sơn, từ năm 1940.
Nếu chiếm đóng Lạng Sơn, con
đường vào sâu trong đồng
bằng miền Bắc Việt Nam kể như
bỏ ngỏ. Từ Lạng Sơn, người
ta chỉ cần di chuyển 120 cây số là
đến Hà Nội, trung tâm điểm vùng
Đồng Bằng Bắc Việt.
Ngoài ra Quân Phiệt Nhật buộc nông dân
phải nộp hết thóc lúa theo lệnh
“Thiên Hoàng” rồi lại cưỡng ép
phá hoại trồng lúa trong vụ Đông Xuân
năm ấy để dành đất đai
trồng đay làm công sự chiến đấu
chống lại quân Đồng Minh. Lại thêm
hạn hán hoành hành khắp nơi, đất
đai thiếu nước khô nức nẻ
ra từng mảng, cây trái xơ xác, ruộng
vườn hoang vắng tiêu điều.
Chính các diễn biến chiến tranh tích lũy
từ những năm đầu thập niên
1940 cùng với những thiên tai đă
đưa đến nạn đói khủng
khiếp giết chết ít nhất hai
triệu người vào năm 1945, từ phía
Bắc miền Trung ra tới Đồng
Bằng Bắc Kỳ.
Về phía người
Nhật
Đối với GS Trần Gia Phụng, có
nhiều nguyên nhân gây ra nạn đói năm
1945 tại Bắc Việt, trong đó nguyên nhân
chủ yếu bắt nguồn từ chính sách
Nhật Bản áp dụng tại Việt Nam
trong thế chiến II (1939-1945).
Trong tập tài liệu "Chiến tranh châu
Á trong tiềm thức của chúng ta", ông
Yoshizawa Minami một người Nhật
Bản đă viết:
"...T́nh h́nh khu vực Việt Nam thật
đặc biệt do sự có mặt thường
xuyên của 80 ngàn quân ta và 200 ngàn lực lượng
hậu cần đă khiến t́nh trạng
kinh tế ở đây hỗn loạn đến
cực độ...
"...Đông Dương có vị trí then
chốt đối với Nhật Bản
về lương thực. Ngoài lượng
gạo nhập khẩu vào Nhật, quân đội
Nhật c̣n rất cần một trữ lượng
gạo lớn lao để tiếp tế cho
các mặt trận đang lan rộng khắp
Á Châu và khu vực Thái B́nh Dương. Đây
chính là nguyên nhân trực tiếp gây nạn
chết đói cho hai triệu người
Việt năm 1945..."(4)
Theo các GS Đỗ Hữu Nghiêm và Lê Văn
Lăng, khi chiếm đóng Đông Dương,
quân đội Nhật muốn chọn
Việt-Nam, đặc biệt Nam Kỳ, như
một bàn đạp hậu cần để
tiến xuống vùng hải đảo. Do
đó, quân đội Nhật không những
tận thu các sản phẩm lúa gạo, cao su
và nhiều tài nguyên kỹ nghệ nông
nghiệp khác, mà c̣n bắt nông dân
Việt-Nam phải phá bỏ các ruộng lúa
mà trồng đay lấy sợi làm bao
chứa gạo vận chuyển tiếp
tế cho các hải đảo vùng Đông
Nam Á như Phi Luật Tân, Mă Lai, Nam Dương,
Thái Lan và cả Úc châu nữa.
C̣n GS Trần Gia Phụng cho biết vào
thời điểm đó, quân đội
Nhật hiện diện tại Việt Nam và
Đông Nam Á càng ngày càng đông. Do đ̣i
hỏi của Nhật Bản, nhà cầm
quyền Pháp ra lệnh một cách độc
đoán buộc nông dân phải thay đổi
cách thức canh tác, từ độc canh cây
thực phẩm, qua đa canh vừa cây
thực phẩm, vừa cây kỹ nghệ. Nói
cách khác, người Pháp buộc giới nông
gia Việt Nam phải bỏ bớt các cánh
đồng lúa để trồng bông
vải, đay, gai, cây có dầu.
Những cây kỹ nghệ nầy vừa
để đáp ứng nhu cầu nguyên
vật liệu của Đông Dương v́
đường nhập cảng từ Pháp
gặp khó khăn, vừa để cung
ứng cho thị trường Nhật Bản
do áp lực của quân phiệt Nhật. Ngày
4-8-1943, báo Lục Tỉnh Tân Văn loan tin
rằng Nhật Bản yêu cầu trồng cây
gai ở Bắc Kỳ và dự tính tăng
diện tích trồng gai lên tới 10.000
mẫu để có thể sản xuất
2.600.000 chiếc bao gai.
Trong ṿng ba năm, diện tích trồng cây
kỹ nghệ gia tăng gấp hai trên toàn cơi
Đông Dương, từ 88.200 mẫu năm
1942 lên đến 154.517 mẫu năm 1944. Riêng
tại Bắc Việt, diện tích nầy tăng
hơn gấp hai, từ 18.850 mẫu năm
1942 lên đến 42.546 mẫu năm 1944.
Những hoa màu chính giảm xuống
nhiều, v́ đất đai ph́ nhiêu đều
dành cho việc trồng các loại cây kỹ
nghệ. Dân chúng nông thôn đói khổ đành
nhờ vào vài loại thực phẩm phụ
để sống qua ngày.
GS Lưu Công Thành cũng cho biết chính
phủ Đông Dương bắt các tỉnh
Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định,
Thái B́nh nhổ thóc trồng các cây công
nghiệp để cung cấp cho Nhật.
Tờ tŕnh của thống sứ Bắc
kỳ Chauvet năm 1944 cho biết diện tích
trồng các loại cây trên đă lên dến
45.000 mẫu. Làm một phép tính nhỏ th́
với diện tích đó người dân có
thể khai thác 585.000 tạ thóc (năng
suất 13 tạ/mẫu). Nếu trồng thêm
khoai, khoai ḿ th́ được thêm 110.000
tạ, tính theo dinh dưỡng th́ tương
đương 72.000 tạ thóc. Như
vậy, 45.000 mẫu ruộng có thể cung
ứng 657.000 tạ thóc, đủ nuôi
sống 547.000 nhân mạng! Một con số
lạnh lùng và tàn nhẫn.
Như vậy, do điều kiện địa
lư, ngay chính quốc Nhật Bản đă
từng thiếu diện tích trồng lúa
gạo. Ở vùng lănh thổ miền Bắc
và Bắc Trung, đồng lúa vốn đă
hiếm, phương chi phải chuyển
ruộng lúa thành đất trồng đay th́
việc thiếu lúa gạo là lẽ tất
nhiên. Trong lúc đó, miền Nam Việt-Nam không
xảy ra nạn đói. V́ thế, trong khi
miền Bắc chết đói th́ ở
miền Nam có lúc tại Saigon, người ta
lấy thóc đốt thay than để
chạy máy xe lửa!
Nạn đói bùng nổ từ mùa thu năm
1944 trở đi khi thời tiết xấu làm
cho vụ mùa năm nầy tiếp tục
bị hư hại. Trong khi dân chúng đói kém,
kho gạo của Pháp và Nhật luôn luôn
đầy đủ. Kawai, một người
Nhật, quản lư kho gạo ở Nam Định,
nơi nạn đói nặng nề nhất,
đă kể lại:
"Tại một khu nhà thờ Thiên Chúa giáo
(Nhật dùng làm kho), gạo chứa đầy
ắp trong kho, lại thấy người
chết đói ngă lăng dọc đường
suốt từ Nam Định lên tới Hà
Nội, tôi đă cố thuyết phục tùy
viên kinh tế của đại sứ quán
Nhật mở các kho gạo đó nhưng
họ không nghe..."(5)
GS Trần Gia Phụng c̣n cho biết thêm:
đến tháng 5-1945, người Nhật
đă tích lũy một số gạo đủ
dùng trong sáu tháng cho Quân đoàn thứ 38
của họ ở Đông Dương. (6)
Về phía người Pháp
GS Đỗ Hữu Nghiêm cho biết người
Pháp cũng cần thu quén lúa gạo để
nuôi quân và đề pḥng bị cô lập
với mọi nguồn tiếp tế ở chính
quốc bên ngoài. Họ vừa phải thu lúa
gạo cho Nhật dưới áp lực
của chính quân phiệt Nhật, vừa
phải dành lúa gạo cho quân dân chính khu
vực ḿnh kiểm soát. Chẳng bao lâu
tất cả các nguồn lợi mà Pháp
vẫn nhận từ chính quốc ở châu
Âu và các nước khác đều bị
cắt đứt. Tất cả kho dự
trữ lương thực đều không
chủ động được dưới
sự chiếm đóng kiểm soát của quân
đội Nhật.
Theo GS Trần Gia Phụng, thỏa hiệp ngày
19-8-1942 buộc nhà cầm quyền Pháp
tại Đông Dương phải xuất
cảng sang Nhật trên 1.000.000 tấn gạo
hạng tốt nhất trong các vụ mùa
1942-1943.
Để bảo đảm việc thi hành
thỏa hiệp nầy, người Pháp
lập ra những kho gạo an toàn. Viên
thống sứ Pháp ở Bắc Kỳ c̣n
buộc các làng xă phải lập những kho
dự trữ tương ứng với
sản lượng lúa gạo của làng
đó, để có thể đáp ứng yêu
cầu của nhà cầm quyền. Trong khi lúa
gạo khan hiếm, người Pháp lại
mua gạo để trữ trong các kho quân lương.
GS Lưu Công Thành cho biết thêm: do chính sách
thu thóc của Pháp: trung b́nh mỗi năm
Bắc kỳ thu hoạch được
1.275.000 tấn thóc (1927-1931) (đă trừ ra
325.000 tấn dùng vào xuất khẩu, nấu
rượu và làm giống). Tuy nhiên số thóc
này phải nuôi đến 6.500.000 người
dân, chưa kể đến năm 1944
lại có thêm 100.000 quân Nhật; bọn chúng
lại c̣n lấy thêm để vận
chuyển viện trợ cho lực lượng
tại Quảng Tây.
Tháng 7.1945, giá chính thức do Nhật ấn
định là 55$ một tạ (giá mua vào
của nhà nước), trong khi giá thị trường
lên đến 800$ một tạ. Kết
quả là nông dân Bắc kỳ nghèo xác xơ,
phải bán cả nhà cửa con cái để
có tiền nuôi gia đ́nh. Năm 1944, Pháp c̣n
bí mật thu thêm 186.180 tấn để
trữ vào kho, làm lương thực khi có
chiến tranh Pháp - Nhật.
Ngoài ra GS Lưu Công Thành c̣n cho biết Pháp
cố ư thủ tiêu tinh thần khởi nghĩa
của nhân dân bằng kế hoạch thuê nhân
công với giá thành rẻ, một khi tại
các nông thôn đă không c̣n đủ ăn.
Desrousseaux đă viết như sau: "Người
nhà quê Việt Nam chỉ chịu rời
bỏ làng xóm để làm việc khi
hắn chết đói nên phải đi
tới kết luận lạ lùng này là phương
thuốc để chữa sự quẫn bách
hiện tại (việc thiếu nhân công
ở các đồn điền cao su và
mỏ) là phải bần cùng hóa nông thôn, rút
bỏ những sự cấp phát, hạ giá nông
nghiệp."
Bulletin économique de l'Indochine năm 1944 cho
biết: "Người ta vẫn thấy
gạo Nam kỳ chở ra tới Vinh, nhưng
người Pháp cho tích trữ lại trong các
kho ở đó và chỉ cho ra tới Bắc
kỳ một số rất ít." Năm
đó tại Nam kỳ giá gạo rẻ đến
nỗi nhà đèn Chợ Quán phải đốt
thóc thay thế cho than đá
Về phía quân dân kháng
chiến Việt-nam
Theo GS Đỗ Hữu Nghiêm, tất cả các
lực lượng có xu hướng chính
trị kháng chiến - quốc gia và không
quốc gia - cũng đều lo tích trữ lương
thực hiếm hoi trong t́nh thế nguy
ngập đó, nhất là những lực lượng
kháng chiến do phong trào Việt Minh kiểm
soát.
Đối với GS Trần Gia Phụng: năm
1945, Việt Minh không phải chỉ khai thác ḷng
căm thù của người dân Việt
để đi theo họ, mà Việt Minh c̣n
là ṭng phạm với Pháp và Nhật trong
nạn đói nầy làm cho hai triệu đồng
bào bị chết. Trong bài "Nạn đói
năm 1945", GS Phụng đă trưng
dẫn tài liệu để chứng minh
điều nầy.
GS Trần gia Phụng cho biết thêm: nạn
đói năm 1945 làm cho dân chúng Việt Nam
nghèo đói, khổ cực, đă tạo môi
trường thuận tiện và thích hợp
cho mặt trận Việt Minh v́ đă
lợi dụng nạn đói do Nhật
Bản gây ra bằng hai cách:
Thứ nhất, Việt Minh xúi dân chúng
chống đối việc trưng mua lúa
gạo, xúi dân đánh phá các kho lúa. Trong cơn
nghèo đói túng quẫn, có người bày
cho phương cách kiếm gạo để
ăn, nên dân chúng hưởng ứng khá
đông.
Thứ nh́, lợi dụng việc chính
phủ tiếp tế để cứu đói
ở miền Bắc, Việt Minh âm thầm
chận bắt những chuyến xe hay
những chuyến ghe chở gạo từ
miền Nam ra, rồi Việt Minh đem
tiếp tế cho những mật khu của
họ (7).
Trong cơn đói, có người đành
phải lên mật khu gia nhập Việt Minh
để được chia phần gạo cướp
được cho qua nạn đói. Hành động
của Việt Minh làm cho việc tiếp
tế gạo từ Nam ra Bắc càng trở nên
khó khăn. Từ đó, nạn đói càng
trầm trọng và Việt Minh càng dễ
hoạt động tuyên truyền, kích động
quần chúng.
Đặc biệt hơn nữa, sau ngày
2-9-1945, Việt Minh tịch thu toàn bộ
tiền bạc của các quỹ cứu đói
trên toàn quốc (8), nghĩa là cướp
lấy tài sản của những người
đang đói, do những người
hằng tâm khắp nước giúp đỡ.
Về những trận oanh
tạc của Đồng Minh
Theo nhận định của các GS Đỗ
Hữu Nghiêm và Lưu Công Thành, người
ta không quên được những trận
oanh tạc khủng khiếp của Đồng
Minh, mà đứng đầu là Mỹ, ngày
đêm oanh tạc xuống những địa
điểm chiến lược nông công
nghiệp trọng yếu để ngăn
chặn và phá tan hệ thống giao thông
đường sắt và đường
bộ, những đường tiến quân
của quân đội Thiên Hoàng Nhật
Bản ở Việt Nam, nhất là ở
miền Bắc.
Chiến tranh dưới h́nh thức không
lực đă góp phần quan trọng làm
đ́nh trệ tất cả sinh hoạt
vốn hạn chế ở khu công nghiệp,
đồng ruộng và công nông dân đang làm
việc tại đó, nhất là những vùng
Nhật Bản bắt buộc nông dân canh tác
đay và vùng mỏ khai thác than đá,
nhằm mục đích tiêu diệt khả năng
tiếp viện và cơ sở hậu cần
của đối phương.
THAY LỜI KẾT
Công cuộc nghiên cứu
nạn đói năm At Dậu 1945
GS Đỗ Hữu Nghiêm cho biết đă có
nhiều công tŕnh nghiên cứu hay nhiều tài
liệu của nhiều tác giả phản
ảnh đó đây về t́nh cảnh
nạn đói năm Ất Dậu này ở
nhiều địa phương khác nhau.
Tại Sài g̣n, Tập San Sử Địa
trong một số báo trước 1975 có
phổ biến bài viết về “Nạn
Đói Năm Ất Dậu (1945)” của Bà
GS Tăng Xuân An, phụ trách giảng dậy
môn Sử Địa.
Mới đây Viện Sử Học Hà
Nội, thuộc Trung Tâm Nhân Văn và Khoa
Học Xă Hội Quốc Gia, do Nhóm giáo sư
Văn Tạo làm chủ biên, với sự tài
trợ của một tổ chức văn hóa
Nhật, đă tiến hành một cuộc
nghiên cứu hậu kiểm về nạn
đói năm Ất Dậu bằng kư ức
và phỏng vấn các nhân chứng c̣n
sống ở Hà Nội và những nơi khác
ở VN.
Họ đă đưa ra con số người
chết đói ở Đồng Bằng
Bắc Việt Nam là hơn hai triệu người,
mà nguyên nhân chủ yếu là sự chiếm
đóng của quân đội Nhật và chính
sách sử dụng lương thực cùng
ruộng đất của Nhật trong
thế II, mặt trận Thái B́nh Dương.
Dụng ư thực tế của nghiên cứu
này là gián tiếp hay trực tiếp, đ̣i
hỏi chính quyền Nhật Bản hiện
nay phải hồi tưởng và ăn năn
về sự tàn ác của quân dân ḿnh đă
làm cho người Việt, mà rộng tay
đền bù lại!
Trách nhiệm của người Nhật
Bản
Nếu không có những cuộc xâm lược
của Phát Xít Nhật và sự thống
trị của người Pháp th́ đă không
có những cuộc oanh tạc, phong tỏa
của phe Đồng Minh và có thể
chắc chắn nạn đói khủng
khiếp đă không bao trùm lên thân phận người
Việt sinh sống ở miền Bắc
thời đó, tạo thành kư ức tàn
khốc qua bao nhiêu thế hệ con cháu
Lạc Hồng!
GS Trần Gia Phụng nhận định:
Tại Nhật Bản, Hoa Kỳ thả
quả bom nguyên tử đầu tiên
xuống thành phố Hiroshima ngày 6-8-1945 đă
giết chết 130.000 người, và quả
bom thứ nh́ xuống Nagasaki ngày 9-8-1945,
giết chết 75.000 người. Số
tử vong của cả hai vụ ném bom
nầy cộng lại khoảng trên 200.000 người.
Thế mà người Nhật ghi nhớ măi măi
và cho đến nay vẫn c̣n có người
oán hận. So với số người
chết trong nạn đói 1945 ở Việt
Nam, con số đó mới chỉ bằng
một phần mười mà thôi.
Trong bài viết nhan đề "Nhật
Bản và chiến tranh Việt Nam" (trong sách
Những câu chuyện Việt sử, tập
3, 2002), nhân dịp Tokyo University of Foreign Studies
[Đại Học Đông Kinh Nghiên Cứu
Ngoại Vụ] tổ chức hội luận
ngày 14-1-2002, về đề tài "The Memory
of the War: The Vietnam War, which is not a Hollywood
Movie" [Hồi kư chiến tranh: Chiến
tranh Việt Nam không phải là một phim
Hollywood], GS Trần Gia Phụng đă nhận
xét:
Dưới thời Đệ nhất Cộng
Ḥa, Nhật Bản kư kết thỏa ước
với Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) ngày
13-5-1959 trả 39 triệu Mỹ kim để
bồi thường thiệt hại trong
thế chiến thứ nh́, chứ không
phải về vấn đề nạn đói,
và giúp VNCH vay 7,5 triệu Mỹ kim để
tái thiết đất nước. Nhật
Bản c̣n viện trợ cho VNCH xây dựng
đập Đa Nhim. Sau năm 1975, theo tin các
báo, Nhật Bản giúp Nhà Nước
Việt-Nam hiện nay xây dựng cầu
Cần Thơ qua sông Hậu, thi hành từ
2001.
Khi kết luận bài đó, GS Trần Gia
Phụng đặt câu hỏi: Nhật
Bản đă xin lỗi Cao Ly về những
bạo hành trong thời gian chiếm đóng và
về vấn đề bắt phụ nữ
làm nô lệ t́nh dục trong thế chiến
II. Nhật Bản cũng đă xin lỗi
Trung Hoa về biến cố Nam Kinh tháng 11-1937
giết hại khoảng 300.000 người.
Tại sao Nhật Bản chưa xin lỗi
Việt Nam về nạn đói năm 1945
với hai triệu người chết đói?
Tại sao các nhà cầm quyền Việt-Nam -
trước cũng như sau 1975 - đă không
đ̣i hỏi Nhật Bản phải xin
lỗi Việt Nam như Trung Hoa và Cao Ly đă
làm?" Có phải v́ món tiền viện
trợ quá lớn lao từ phía Nhật
Bản mà chính quyền Việt-Nam qua các chính
thể khác nhau đă im hơi lặng
tiếng đối với vấn đề
đau thương nầy!
Hăy đốt một nén hương ḷng yêu
thương, từ bi để khóc than
những oan hồn lịch sử này, nhất
là trong khi bên trời Au, người ta đă
nhắc măi đến nhiều trại tù
giết người tàn bạo của Đức
Quốc xă ở Dachau, Auchwitz, … Ai bồi thường
chiến tranh cho cái oan khiên này của dân
tộc Việt thấp cổ bé họng!
Nhân dịp Xuân Ất Dậu 2005 trở về,
GS Trần Gia Phụng đề nghị các
tổ chức người Việt hải
ngoại hăy cùng nhau tổ chức lễ tưởng
niệm hai triệu người Việt đă
từ trần oan uổng trong nạn đói năm
Ất Dậu 1945 mà nguyên nhân chính là do con người
đă gây ra cho con người, trong đó ba tác
nhân chính là Phát Xít Nhật, thực dân Pháp
và phong trào kháng chiến Việt Minh.
“Ta nhớ măi cái thời kỳ đen
tối!
Quên làm sao tội lỗi kẻ xâm lăng!
Quên làm sao mối thù hận khôn cùng!
Quên sao được hai triệu người
chết đói!” (Bàng Bá Lân).
GHI CHÚ
(1) Bài thơ “ĐÓI’ của thi sĩ Bàng
Bá Lân (Tháng năm 1957). (“Thi Nhân Việt-Nam
Hiện Đại, quyển thượng,
trang 284-288)
(2) Hồi kư Đỗ Hữu Nghiêm viết
tại Dayton, Ohio, ngày 12.11.2004, được
bổ sung ngày 5/12/2004.
(3) “Một Gặp Gỡ Buồn” của Giám
Mục Bùi tuần, đang trên VietCatholic ngày
5/12/2004.
(4) Ngô Thế Vinh dịch và trích dẫn trong
bài “Từ Ất Dậu - 1945 sáu mươi năm
đi tới cây cầu Cần Thơ - 2005”,
đăng trên tạp chí Hợp Lưu,
California, số 51, tháng 2 & 3 năm 2000, tt.
170-171.
(5) Ngô Thế Vinh, dịch và trích dẫn, bđd.
tr. 171.
(6) David G. Marr, Vietnam 1945, The Quest for Power
[Việt Nam 1945, đi t́m quyền lực],
University of California Press, Berkeley, 1995, tt. 97-98.
(7) David G. Marr, sđd. tr. 102-103.
(8) Ngô Thế Vinh, bđd. tr. 173.
|