|
LƯỢC SỬ TÊN HỌ NGƯỜI
VIỆT
Nguyễn Vy-Khanh
http://www.vietnamgiapha.com/
Nghiên cứu tất cả hệ thống tên
họ các dân tộc trên thế giới cho
thấy người Việt có lẽ là một dân
tộc đầu tiên, cùng với người
Trung Hoa và Đại Hàn, có một hệ thống tên
họ đơn giản và hợp lư nhất. Người
Nhật mải đến năm 1872 mới
được quyền có họ, trước
đó chỉ có các ngài đạiđanh
(samourais) là có đặc quyền đó. Theo
lịch sử Trung quốc, việc đặt
họ tên bắt đầu từ năm 2852 trước
Công nguyên, khi vua Phục Hi ra lệnh bắt dân chúng
phải có một "gia tính" hay "tộc tính"
để dễ phân biệt các hệ phái gia
đ́nh và định phép tắc hôn nhân. Đến
thế kỷ thứ V trước Công nguyên
ở Trung quốc đă có hai loại "gia tính"
được dùng: "tính" là họ
gốc, do cha truyền con nối hoặc do vua ban,
và dành cho nam giới; "thị" là họ cành,
tức tên đặt khi mới sanh dùng cho cả
nam lẫn nữ. Giới quư tộc vừa có Tính
vừa có Thị, dân giả th́ chỉ có tính.
Từ đó phát xuất thành ngữ "bá"
hoặc "bách tính". Con trai đàn ông xưng
"thị" để phân biệt sang hèn, con
gái đàn bà xưng "tính" để phân
biệt hôn nhân.
Theo huyền thoại, Lạc Long Quân và các vua Hùng
đều rất gần dân chúng, biết hết
sự t́nh của con dân. Như Lạc Long Quân
chỗ ở là thủy phủ nhưng khi dân
cần đến, đứng trên bờ gọi là
ngài sẽ lên giúp dân. Nhân số bành trướng,
lănh thổ Bách Việt cũng thiên di từ phía
nam sông Dương-tử xuống đồng
bằng sông Hồng, hội nhập văn hóa và
đồng hóa người Mường và các
sắc dân địa phương. Tuy nhiên văn
hóa nông nghiệp nền tảng của Việt
tộc vẫn luôn trội bật. Do đó hơn
hai ngàn năm trước, tổ tiên ta đă nghĩ
lập ra "sổ điền" cốt để
nhà vua kiểm kê nhân và dân số hàng năm
hoặc theo một thời hạn cố định,
mục đích nhằm phân chia ruộng nương
thời đó thuộc về nhà vua. Việc phân
chia này đ̣i hỏi một sự hiểu
biết tường tận từng nóc gia. Với
họ và tên gọi, quan chức triều đ́nh
có thể ấn định số người
trong mỗi gia đ́nh. Về sau thêm "sổ
đinh" hoặc "sổ bộ", ghi
họ tên chính thức về hộ tịch
từng cá nhân và gia đ́nh. Rồi từ
"sổ bộ", mỗi gia đ́nh lập
một sổ riêng, ghi chú tất cả những
việc cưới hỏi, sinh đẻ và tang
ma. Đó là nguồn gốc của gia phả.
Nếu lịch sử là quá khứ và nền
tảng của một dân tộc th́ gia phả là
lịch sử h́nh thành và phát triển của gia
tộc. Gia phả phát xuất từ Trung quốc
dưới dạng thức "thế
bản" từ thời nhà Chu (111-256 trước
Công nguyên) trong khi ở Việt Nam có thể gia
phả đă có từ trước, nhưng theo
lịch sử biên chép th́ gia phả xuất
hiện từ năm 1026 vào thời vua Lư Thái
Tổ, gia phả đầu tiên được
gọi là Hoàng-triều ngọc-điệp.
Tục làm gia phả phát triển mạnh ở
hai miền Bắc và Trung, trong Nam rất ít gia
đ́nh làm gia phả ở đấy c̣n
được gọi là "gia phổ" và
biến thái thành "tông chi" tức tờ
"tông chi tông đồ" cốt để phân
phối gia tài hơn là để phân chia ngành
ngọn của gia đ́nh. Theo ông Dă Lan Nguyễn
Đức Dụ, lư do là để tránh sự
khủng bố của thực dân Pháp (1).
Trong gia phả, người đứng đầu
ngành trưởng (trưởng họ, trưởng
tộc) có bổn phận ghi hết những chi
tiết về thân thích và ḍng dơi; những người
con khác sao lại bản gia phả chính đó. Các
gia đ́nh giữ ǵn kỹ lưỡng và
truyền từ đời cha tới đời
con. "Họ" theo nghĩa gốc có liên
hệ với nhà và dưới chế độ
phong kiến, nối kết con người với
đất ruộng: một mái nhà, một gia
đ́nh, một họ. Họ và tên của
một người định vị trí của cá
nhân người đó trong xă hội, xác định
cá thể trong một toàn thể.
Họ tên của người Việt thông thường
gồm có theo thứ tự: họ, chữ lót
hoặc tên đệm, và tên gọi. Trừ
một vài ngoại lệ, người Việt thường
gọi nhau bằng tên gọi (prénom, petit nom; first
name): bà Nhị, cô Yến, ông Khanh, cụ Mục,
cháu Khuê, v.v.
Họ (Tính):
Số họ người Việt rất hạn
chế, có khoảng 140 họ khác nhau - chúng tôi
ghi lại trong danh sách ở cuối bài. Do đó
có thành ngữ "trăm họ" (bách tính, c̣n
đọc là "bá tánh") thời xưa thường
dùng để chỉ dân chúng cả nước.
Ông Dă Lan Nguyễn Đức Dụ trong cuốn Gia
Phả đă dẫn có nói đến ba trăm
họ tối đa có thể có nhưng ông đă
không lập danh sách (2). Cũng theo ông, người
Trung quốc cũng chỉ có ba trăm họ trong
khi người Nhật Bản xử dụng đến
một trăm ngàn tên họ khác nhau. Người
Pháp gọi "họ" là "nom de famille"
và "patronyme", người Anh Mỹ,
"family name" và "patronym".
Những họ Việt Nam thường gặp
nhất là Nguyễn, Phạm, Phan, Trần, Lê, Vũ/Vơ,
Trương, Huỳnh/Hoàng. Nhiều người
mang cùng một họ không có nghĩa là họ có
cùng một gốc gác. Thời xưa và nhất là
ở nhà quê, người ta phân biệt nhau
bằng cách gọi "họ Nguyễn làng Tiên
Điền", "họ Nguyễn làng Tây Sơn",
v.v. Trong nhiều làng thôn, tất cả mọi người
cùng mang một họ. Có người cắt nghĩa
là v́ vào thời lập quốc, người
Việt chỉ có một tổ tiên chung là
Lạc Long Quân và Âu Cơ. Đến thời
hiện đại, những người Việt này
chứng minh mỗi ḍng họ một tổ tiên
riêng.
Từ khi bị người Tàu đô hộ, người
Việt chính thức theo chế độ phụ
hệ, do đó con cái phải lấy họ cha.
Theo dân luật, con phải lấy họ cha, không
có vấn đề tự do lựa chọn.
Họ không thể cho người ngoài họ dùng
và trên nguyên tắc không thể thay đổi. Có
hẳn cả một hiệp ước quốc
tế năm 1959 về thay đổi họ. Tuy
nhiên trong Nam từ thời Pháp thuộc có khuynh hướng
dùng cả họ cha và họ mẹ mà đặt
cho con, thí dụ con đầu lấy họ cha th́
con thứ lấy họ mẹ, anh chị em
ruột mà họ khác nhau là v́ vậy!
Họ kép:
Nhiều gia đ́nh mang họ kép, như Vũ-Đỗ
Th́n, Đặng-Trần Huân, Trần-Lê Quang, v.v.. Tuy
nhiên cần phân biệt hai loại họ kép:
- Họ + tên đệm: Các họ Đặng-Xuân,
Đặng-Vũ và Ngô-Vi, Ngô-Thời, xuất phát
từ một gia đ́nh gốc họ Đặng và
họ Vũ, nhưng v́ muốn phân biệt chi nhánh
nên đă thêm tên đệm vào họ. Yếu
tố này không phải là họ, nhưng giữ
nhiệm vụ tên lót trung gian giữa họ và tên.
Nhưng những họ đi kèm với tên đệm
"Bá, Thúc" phải được coi như
họ đơn, v́ những tên lót này chỉ là
những chữ lót chung.
- Họ kép hợp bởi hai họ: Đây là
những họ kép chính thức. Thường
thấy có: Vũ-Đỗ, Nguyễn-Trần,
Trần-Lê, Hồ-Đặng, Lê-Phan, Vũ-Phạm,
Đặng-Trần. V́ một lư do nào đó,
một người xử dụng họ kép và
truyền lại cho các thế hệ sau. Trước
hết là trường hợp người con nuôi,
y thêm họ gia đ́nh cha mẹ nuôi vào họ
gốc. Họ mới đi trước họ
gốc. Đó là hoàn cảnh của nhà thơ Đặng-Trần
Côn, tác giả Bích-Câu kỳ-ngộ và Chinh
Phụ Ngâm Khúc. Là con nuôi của một gia đ́nh
họ Đặng, ông vốn tên là Trần Côn. Con
cháu thường vẫn tiếp tục giữ
họ kép đó. Nhưng có trường hợp có
người con lấy lại họ cũ, như
con cháu Vũ-Phạm Hàm, gốc họ Phạm, làm
con nuôi người bạn của cha họ Vũ
nên mới có họ kép là Vũ-Phạm. Về
sau, có người c̣n giữ họ Vũ-Phạm,
nhưng đa số lấy lại họ gốc là
Phạm v́ ông chỉ truyền họ kép Vũ-Phạm
cho một trong chín người con.
Một lư do khác thông thường hơn. Vua chúa
ngày xưa thường cho phép một số quan
lại có công với triều đ́nh hoặc
đỗ đạt cao được đổi
tên và có khi cho phép theo họ của vua (quốc tính),
xem đó là một cách tưởng thưởng
trọng hậu. Có người bỏ hẳn
họ gốc để lấy họ vua như
Mạc Cảnh Vinh được chúa Săi
Nguyễn-Phúc Nguyên cho phép đổi thành
Nguyễn-Phúc Vinh. Nhưng thường người
được đổi họ được phép
giữ họ gốc ghép vào họ mới mà thành
ra họ kép. Huỳnh Đức, quan triều đại
Gia-Long trở thành Nguyễn-Huỳnh Đức. Các
con ông là Nguyễn-Huỳnh Thành,
Nguyễn-Huỳnh Thừa, v.v.. Tuy nhiên con gái
vẫn giữ họ gốc Huỳnh v́ con gái không
mang quốc tính. Chỉ có thời Tống Nho
mới có những phân biệt nam nữ như
vậy!
Hiện nay người ta thấy có nhiều
họ kép loại nhưng thường gồm hai
họ của vợ chồng dùng đặt cho con
cái. Các họ kéo mới này không thể trường
tồn v́ không được mọi người
và tục lệ chấp nhận. Hơn nữa,
những người con của họ, một khi
lập gia đ́nh lại sẽ đổi họ
kép đặt cho con, họ kép của người
phối ngẫu mới có thể là một họ
khác.
Nguồn gốc họ người Việt:
- Họ các triều đại: Đa số người
Việt mang một họ trong số 16 ḍng họ
đă từng cai trị lẫy lừng trong
lịch sử. Theo thứ tự niên đại,
đó là những họ Thục, Trưng,
Triệu, Mai, Khúc, Lư, Phùng, Kiều, Ngô, Đinh, Lê,
Trần, Hồ, Mạc, Trịnh và Nguyễn.
Hoặc họ là con cháu thật sự của
những ḍng họ kể trên, hoặc họ
xử dụng như mượn họ hoặc
bị bắt buộc mang những họ đó nhưng
khác họ thật.
Có gia đ́nh tự ư đổi lấy họ
đương triều để chứng tỏ
sự trung thành. Có người do nhà vua ban cho như
Nguyễn Trăi có lúc đổi tên là Lê Trăi theo
họ nhà vua. Một số khác bị bắt
buộc phải đổi họ của triều
đại vừa bị lật đổ để
lấy họ đương triều để
chứng giám ḷng trung thành với triều đại
mới. Trong nhiều trường hợp,
triều đ́nh bó buộc dân gian bỏ họ
gốc để lấy quốc tính để tránh
những nhóm phản động có ư lật đổ
triều đ́nh hay làm loạn đưa người
họ triều triều đại vừa bị
lật đổ vào cho có lư do chính trị (ư
trời, "thuận thiên"). Nhà Nguyễn
thời Gia Long và MInh Mạng đă bắt
những người họ Lê đổi họ thành
Nguyễn chỉ v́ thời đó những kẻ
cầm đầu những phong trào phản động
mang họ Lê: Lệ
Riêng họ Nguyễn, c̣n là họ triều đại
quân chủ cuối cùng, có thêm một lư do khác
khiến họ này trở nên thông dụng nhưng
lại khó hiểu dưới mắt người
Tây phương. Đời Trần Thái-Tông (1232), sau
khi đă đoạt ngôi nhà Lư, Trần Thủ Độ
lấy lư do tổ nhà Trần tên Lư, đă
bắt tất cả những người họ Lư
là họ ḍng vua vừa bị hoán vị, lẩn
dân gian, phải đổi làm họ Nguyễn; tuy
nhiên ư đồ thật sự là khai tử ḍng
vua Lư để sẽ không c̣n ai nhớ đến
ḍng họ Lư nữa.
Ngoài ra, có người cải đổi tên
họ v́ trốn sưu thuế, trốn lính
hoặc bất đắc dĩ phải đổi
lấy họ đương triều v́ ông cha
bị tội h́nh như "tru di tam tộc" -
cũng là lư do tại sao ngày xưa khi đi thí
phải khai họ ba đời. Có người
đổi họ v́ một lư do riêng tư khác.
Như Hàn Thuyên vốn họ Nguyễn, được
vua Trần ban cho họ Hàn v́ ông làm bài văn ném
xuống sông khiến cá sấu bỏ đi, như
chuyện Hàn Dũ bên Trung Hoa trước đó.
Và v́ Hàn Thuyên hay làm thơ phú bằng quốc âm
nên về sau các nhà văn học sử có khi
gọi thơ văn chữ Nôm là thơ văn
"Hàn luật". Hoặc như Hồ Quư Ly
tổ tiên gốc người Chiết Giang (Trung
Hoa) sang nước ta định cư, đến
tổ tiên đời thứ tư là Hồ Liêm làm
con nuôi nhà họ Lê nên đổi lấy họ Lê.
Nhưng khi Hồ Quư Ly dấy nghiệp, ông
lấy lại họ Hồ và đặt cả
quốc hiệu là Đại Ngu v́ ông nhận làn ḍng
dơi nhà Ngu.
Hoặc v́ kiên tên húy của vua chúa, nhiều người
phải đổi họ, như ông trạng Hoàng
Nghĩa Phú (1511), tổ tiên v́ kiêng tên vua Lư mà
đổi ra họ Trịnh, rồi lại
phải đổi ra họ Trần; đến
đời Trần Khắc Minh mới đổi
lấy lại họ Hoàng. Vua Quang Trung Nguyễn
Huệ vốn họ Hồ và ḍng dơi Hồ Quư
Ly, sau lấy họ mẹ là Nguyễn. Cùng trường
hợp với Nguyễn Quang Bích là cháu đời
thứ hai của Ngô Quyền.
Hoàng-tộc (patriline) nhà Nguyễn:
Chúng tôi mở dấu ngoặc bàn về họ
gia đ́nh vua nhà Nguyễn (1802-1945) v́ các họ
thuộc về gia đ́nh này không khỏi gây
thắc mắc cho nhiều người, nhất là
đối với người nước ngoài, như
làm sao họ có thể hiểu cha họ Bửu mà
con họ Vĩnh. Ḍng chúa Nguyễn đến
đời chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635)
mới dùng chữ lót "phúc". Con cháu gia
đ́nh họ Nguyễn này, từ đời Minh
Mạng (1820-1841) trở đi, đă phân biệt
nhau theo ḍng và thế hệ bằng nhiều
"họ mới" khác nhau. Theo thứ tự,
con cháu cùng một đời mang cùng một
họ riêng nhưng luôn hiểu ngầm là họ
Nguyễn. Cứ mỗi "họ mới" là
một đời, bắt nguồn từ bài Đế-hệ
thi của vua Minh Mạng, dùng cho "chánh
hệ" (primary royal branch) tức ḍng vua Gia Long:
Miên Hồng (Hường) Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Quư Định Long Trường
Hiền Năng Khang Kế Thuật
Thế Thoại Quốc Gia Xương
Thí dụ: Miên Tông (Thiệu Trị), Miên Thẩm
Tùng Thiện Vương, Miên Trinh Tuy Lư Vương
Hồng Nhậm (Tự Đức), Hồng Bảo
(nổi loạn năm 1848), Hồng Dật
(Hiệp Ḥa)
Ưng Tŕnh, Ưng Quả, Ưng Kỳ, Ưng
Lịch (Hàm Nghi), Ưng Thuyên Bửu Đảo
(Khải Định), Bửu Lân (Thành Thái), Bửu
Lộc, Bửu Hội Vĩnh San (Duy Tân), Vĩnh
Thụy (Bảo Đại), Vĩnh Lộc Bảo
Long, Bảo Quốc, v.v.
Như sẽ tŕnh bày trong phần tiếp về
chữ lót, cách định họ trước này
bị ảnh hưởng người nhà Thanh (Măn
Châu) lúc đó đang cai trị Trung Hoa. Vua Minh
Mệnh là vị vua nhà Nguyễn chịu nhiều
ảnh hưởng của Trung quốc. Theo phong cách
của những người trong giới vua chúa và
quan lại nhà Thanh, một ông tổ dụng công
nghĩ ra đặt saûn chữ lót cho nhiều
thế hệ nối tiếp, có khi cho là do
thần truyền mộng. Đó là nguồn gốc
của nguyên tắc "hệ thi" có thể dùng
cho nhiều đời liên tiếp.
Tuy nhiên các họ từ bài "đế-hệ
thi" nói trên chỉ được dùng cho
hậu duệ ḍng vua Minh Mạng, v́ ngoài
"dế-hệ thi" vua c̣n làm mười bài
"phiên-hệ thi" nhắm cho mười ông
hoàng anh em của vua. Tưởng cũng cần
biết, vua Gia Long có cả thảy 13 hoàng nam; vua
Minh Mạng tên Nguyễn-Phúc Đăm là hoàng tử
thứ tư và trưởng nam là hoàng tử
Cảnh đă qua đời lúc trẻ tuổi.
Sau khi phổ biến 10 bài "phiên-hệ thi"
th́ Quang-Oai Công, ông hoàng thứ 10 cũng chết
trẻ, c̣n một số ông hoàng khác cũng
tuyệt tự sớm hoặc từ đời
thứ hai. Đó là lư do tại sao đến nay
trong thực tế chỉ có bốn bài "phiên-hệ
thi" được dùng cho hậu duệ
bốn ông hoàng kể sau:
- AnhĐuệ Hoàng Thái-tử (Nguyễn-Phúc
Cảnh, hoàng trưởng-tử của vua Gia
Long):
Mỹ Duệ Tăng Cường Tráng
Liên Huy Phát Bội Hương
Linh Nghi Hàm Tấn Thuận
Vỹ Vọng Biểu Khôn Quang
Hoàng-tử Cảnh mất khi 22 tuổi, ông có hai
con trai: Mỹ Đường bị chú là Minh
Mạng kết tội và giáng làm dân đinh, con
cháu chỉ được phụ chép vào sau tôn-phả,
và người con thứ hai Mỹ Thùy mất
sớm. Kỳ-Ngoại Hầu Cường Để
và các con ông là Tráng Cử, Tráng Liệt, Tráng Đinh
thuộc nhánh (pḥng) này.
- Kiến-An Vương (hoàng tử thứ năm):
Lương Kiến Ninh Ḥa Thuật
Du Hành Suất Nghĩa Phương
Dưỡng Dĩ Tương Thức Hảo
Cao Túc Thể Vi Tường
Kiến-An quận-công Lương Viên cũng như
ông Ḥa Giai và con Thuật Hanh, Thuật Hy thuộc
pḥng này.
- Định-Viễn Quận-vương (hoàng tử
thứ sáu):
Tĩnh Hoài Chiêm Viễn Ái
Cảnh Ngưỡng Mậu Thanh Kha
Nghiêm Khắc Do Trung Đạt
Liên Trung Tập Bát Da
Ông Tĩnh Cơ cũng như Chiêm Nguyên và các
con Viễn Ngô, Viễn Cẩm, Viễn Tống hay
ông Chiêm Tân và con Viễn Bào đều thuộc
nhánh này.
- Từ-Sơn Công (hoàng tử thứ mười
ba):
Từ Thể Dương Quỳnh Cẩm
Phu Văn Ái Diệu Dương
Bách Chi Quân Phụ Dực
Vạn Diệp Hiệu Khuông Tương
Từ Đàn, Thể Ngô cũng như giáo sư Dương
Kỵ và con là Quỳnh Trân, ông Dương Thanh và
con Quỳnh Nam đều là hậu duệ con trai
út của vua Gia Long.
Các bài "phiên-hệ thi" và "đế-hệ
thi" đồng thời là những bài thơ
chữ Hán đúng niêm luật và có ư nghĩa; tài
của "tác giả" là ở đó, không
một chữ trùng điệp. Ở mười
một bài tứ tuyệt! Người ta vẫn tương
truyền là "ngự chế" do thần
mộng! Các bài này năm 1823, được vua
Minh Mạng ra lệnh cho khắc lên một
cuốn sách kim-loa.i ("kim sách") bằng vàng
ṛng cho bài "đế-hệ thi" và muời
cuốn bằng bạc ("ngân sách") cho mười
bài "phiên-hệ thi". Các kim và ngân sách này
được bảo tŕ kỹ lưỡng cho
đến thời Tự Đức th́ phần
lớn phải nấu ra kim loại để
trả nợ chiến phí bốn triệu đồng
cho Pháp và Tây-ban-nha theo hiệp ước Nhâm-tuất
(1962). Không ai biết sự thật ra sao v́ đến
ngày Bảo Đại, vị vua cuối cùng của
nhà Nguyễn thoái vị, các sách kim loại này
đă biến mất!
Vua Minh Mạng cũng quyết định rằng
hậu duệ của Triệu-tổ Tịnh Hoàng-đế
Nguyễn Kim mà không phải là hậu duệ ngành
vua Gia Long, tức hoàng tộc "tiền
hệ", th́ chỉ dùng họ "Tôn-thất".
Riêng về nữ giới hậu duệ của
vua Minh Mạng th́ dùng các cách gọi sau đây,
thay đổi theo thứ tự thế hệ:
Công-chúa : chị em vua Minh Mạng
Công-nữ : con của vua
Công tôn-nữ: cháu của vua
Công-tằng tôn-nữ : chắt của vua
Công-huyền tôn-nữ: chít của vua
Lai-huyền tôn-nữ : con của chít của vua
MM.
Người trong hoàng tộc thuộc "đế-hệ
thi" thường không để
"Nguyễn-phúc" hay "Tôn-thất" phía
trước họ mới như Bảo Long,
Bửu Dưỡng, Ưng Quả,... trong khi
những người thuộc "phiên-hệ
thi" th́ lại hay dùng "Tôn-thất" trước
họ mới như Tôn-thất Viễn-Bào, Tôn-thất
Dương Kỵ,...
Nói chung, các "họ mới" này giúp đoán
biết người nào thuộc hoàng tộc nhà
Nguyễn và là hậu duệ của ngành Gia Long,
Minh Mạng hay Nguyễn Kim. Tuy nhiên, các
"họ" này không thật là "họ"
theo nguyên nghĩa, do đo chúng tôi sẽ không ghi
vào danh sách các họ ở cuối bài. Riêng con cháu
ḍng nhà Lê cũng có một hệ thống tên lót
"Cam, Hồng, Phước" để phân
biệt thế hệ, tuy nhiên chúng tôi chưa t́m
được tài liệu (*) để có thể
xác nhận.
Họ dân gian:
Trong số "trăm họ" hiện
được dùng, có chừng 30 họ là
gốc Việt hoàn toàn, lúc đầu vốn là
họ bộ tộc. Chúng tôi nói "họ"
Việt mà không nói "người" Việt v́
đến nay, mấy ai có thể chứng minh là
thuần "len" hay "máu" Việt.
Ngược ḍng lịch sử, Việt tộc
xuất phát từ đồng bằng phía Nam sông
Dương-tử bên Tàu. Bị người Hán xâm
chiếm, tổ tiên ta đă phải thiên cư
xuống phía Nam và lập quốc ở vùng đồng
bằng sống Hồng, Bắc Việt. vào
khoảng thế kỷ thứ IV trước Công-nguyên.
Từ năm 1069, người Việt nam tiến
chiếm toàn thể nước Chiêm-Thành năm
1693 và chiếm đóng phần đồng
bằng phía đông Cam-Bốt tức Thủy Chân-Lạp
năm 1759. Cuộc Nam tiến đă dừng
lại khi người Pháp chiếm đóng và thành
lập Đông dương thuộc địa.
Phần khác, nước ta từng bị nhà Hán và
các triều đại Trung quốc sau đó đô
hộ cả ngàn năm, một số quân lính
sang đất Giao Chỉ rồi ở lại
lập gia đ́nh sanh con đẻ cháu. Mặt khác
nữa, nước ta đă từng đón
nhận nhiều người Hoa đến tị
nạn hoặc di trú. Đáng kể nhất là
quần thần nhà Minh tới định cư
ở Nam Việt ta sau khi bị người Măn Châu
(Thanh) xâm chiếm nước họ.
Đó là lư do lịch sử của một số
họ Việt gốc Hoa như Khổng, Lưu, Trương,
Mai, Lâm, Lữ, Nhan, Sử, Tăng, Trịnh, Vương,
v.v. hoặc gốc Miên như Thạch, Sơn,
Danh, Kim, Lâm là năm họ nhà Nguyễn đă ban
cho, hoặc gốc Chàm như Chế, Chiêm, v.v.
hoặc họ của đồng bào thiểu
số (trong nước hiện gọi là "dân
tộc") như Linh, Giáp, Ma, Đèo, Kha, Diêu, Vi, Quách,
Nông, Chữ, Ngân, Ông, Trà, Lang, Lục, sầm,
v.v.
Ư-NGHĨA HỌ NGƯỜI VIỆT:
Tất cả họ Việt Nam đều có
một ư nghĩa ngữ nguyên. Trong số "trăm
họ", có những họ xưa tới ba
bốn ngàn năm, vào thời đại mà
mỗi bộ tộc có một tượng
vật riêng, hoặc cây cỏ hoặc cầm thú.
Sau đó những tên biểu hiệu tượng
vật đó được một số gia
tộc dùng làm họ, thí dụ họ Âu. Một
số khác biểu tượng nghề nghiệp
như họ Đào (thợ gốm), hoặc cách sinh
sống của bộ tộc, như họ
Trần. Một số biểu tượng nơi
bắt gốc bộ tộc hoặc gia đ́nh.
Họ lúc đầu là họ bộ tộc, đó
là lư do người Anh và Pháp gọi là
"patronym(e)" để phân biệt với
"nom de famille / family name".
Lúc đầu được ghi chép bằng
chữ Hán, sau thêm chữ Nôm rồi "quốc
ngữ" hóa, họ người Việt theo ḍng
lịch sử bị nhiều ảnh hưởng,
đă biến đổi hoặc hiểu sai
lạc, khiến cho người thời nay khó
hiểu được ư nghĩa sơ nguyên
của họ. Cùng một phát âm như của ngày
hôm nay, chưa chắc một chữ đă
gợi lên cùng một ư nghĩa, như các họ
Đinh hiện được hiểu là "công dân",
"người". Quách nghĩa là vật
chắc chắn, có sức đối kháng mà cũng
có nghĩa là "lớp thành ngoài". Họ Lê
vốn nghĩa là "dân chúng" nói chung.
V́ những lư do đă nêu, các họ được
ghi chép lại, được hiểu là phải
viết như một danh từ chung, nhưng không
nên hiểu là có cùng một ư nghĩa như danh
từ đó. Cũng như người Pháp có các
họ Boucher, Boulanger ... có thể từ nguyên
gốc để chỉ những nghề của
tổ tiên họ. Các chữ không nhất
thiết phải gợi lên hành động,
trạng thái hoặc đối tượng
của danh từ, nhất là từ khi có chữ
quốc ngữ la-tinh, các chữ gợi h́nh ít hơn
và cũng dễ gây hiểu lầm hơn. Tên
họ ghi chép trong các từ điển hiện
nay nên được xem như không có ư nghĩa
chắc chắn, v́ thế ta không thể khẳng
định họ viết như thế phải
nghĩa là thế này hoặc họ đó tương
đương với danh từ chung diển
tả sự vật hoặc hành động.
Chú-thích:
Dă lan Nguyễn Đức Dụ. Gia-phả: khảo
luận và thực hành. Hà Nội: Văn Hóa, 1992.
Tr. 26.
Dă Lan NDDD. Sddd. tr. 200.
..........................................................
|
|