|
Thổ
Ngữ Của Tiếng Huế
Phan
Thịnh
(Đã
đăng trong mục "Xóm Cũ", báo
Làng Văn trang 68 đến 71, số 183 ngày
1/6/1999
ERCT trích từ www.khoahoc.net
)
Tiếng
Huế không phải chỉ đơn giản tê
mô răng rứa như thỉnh thoảng
vẫn xuất hiện trong thơ, nhạc và văn
xuôi như những nét chấm phá rất dễ
thương để nói về người và
xứ Huế; mà nhức đầu, phức
tạp, nhiêu khê, đa dạng và phong phú hơn
nhiều . Tùy vào từng địa phương
của Huế, cách phát âm có chỗ nặng nơi
nhẹ; lúc thanh tao khi khó hiểu .
Xin được đơn cử một câu
rất Huế, một tâm sự kín đáo
giữa hai o đang tuổi lấy chồng: "Tau
noái với mi ri nì, en còn ở dôn, rứa mà
bữa tê tề, en chộ tau phơi ló ngoài cươi,
en kiêu tau vô, bồn tau lên chờn, cái ba . . . en
đẩn . Mi quai chướng khôn ?"
Sở dĩ tâm sự kín đáo vì đây là
chuyện riêng của hai người, nói bằng
thổ ngữ, nhưng ý nghĩa thì như
vầy: "Tao nói với mày như vầy,
ảnh còn ở rể, vậy mà hôm kia kìa, tao
đang phơi lúa ngoài sân, ảnh kêu tao vào,
bồng tao lên giường, rồi ảnh . . . Mày
coi có kỳ không ?" .
Chữ đẩn, ngoài ý nghĩa một
trong bốn cái nhất của đời người
trên còn có nghĩa như ăn: "Đẩn
cho bưa rồi đi nghể" . Ăn cho no
rồi đi ngắm gái .
Đẩn cũng có nghĩa là đánh đòn:
"Đẩn cho hắn một chặp!"
(Đục cho hắn một hồi!) . Chữ đẩn
còn được phong dao Huế ghi lại:
Được mùa thì chê cơm
hẩm
Mất mùa thì đẩn cơm thiu
Xin
được thêm một câu ngăn ngắn
gần như rặt thổ ngữ của Huế
mà, nếu không có . . . thông dịch viên gốc
Huế hoặc Huế rặt, e rằng khó mà . .
. đã thông cho được:
"Thưa cụ mự, bọ tui vô rú rút mây
về đươn trẹt, bọ tui chộ con
cọt, rứa mà nỏ biết ra răng, con
cọt lủi, lủi năng lắm, bọ tui
mờng rứa thê ! Chừ mạ tui cúng con gà,
cụ mự qua chút chò bui ." (Thưa
cậu mợ, bố con vào rừng rút mây về
đan rá (hoặc nia), bố con thấy con
cọp, vậy mà chẳng biết sao; con cọp
chạy trốn, chạy lẹ lắm; bố con
mừng quá . Giờ mẹ con đang cúng con gà,
cậu mợ qua chút xíu cho vui) . Khó hiểu chưa
? !
Thổ ngữ ở Huế thì nhiều lắm và
cũng lạ lắm, và vì tiêu đề của
bài này là lan man về những thổ ngữ
đó, nên xin được nhẩn nha tìm
lại chút ít những gì đã mất và ôn
lại những gì đang còn xài . Vì trang báo có
hạn, không thể giải thích từng chữ
một, nên trong bài này, xin được ghép
thổ ngữ thành từng câu, từng nhóm
thổ ngữ, vừa đỡ nhàm chán lại
ra câu ra kéo, có đầu có đuôi hơn:
"Đồ cái mặt trỏm lơ mà đòi
rượn đực!" (Thứ mặt mày
hốc hác mà đòi hóng trai) . Độc chưa
? O mô mà lỡ mang cái nhãn không cầu chứng
tại tòa này chắc phải ở giá hoặc
phải chọn kiếp . . . tha hương may ra
mới có được tấm chồng . Chữ
rượn gần đồng nghĩa
với câu con ngựa Thượng Tứ, câu
này cũng độc không kém . Thượng
Tứ là tên gọi của cửa Đông Nam, bên
trong cửa này có Viện Thượng Kỵ
gồm hai vệ Khinh kỵ vệ và Phi kỵ
vệ chuyên nuôi dạy ngựa cho triều đình
Huế . Vì thế gọi ngựa Thượng
Tứ có nghĩa bóng bảy xa xôi rằng con
đó nó ngựa lắm, nó đĩ lắm, nhưng
thâm thuý hơn nhiều .
"Mệ cứ thộn ló vô lu, còn lưa, tui
này lại !" (Bà cứ dồn lúa vô
khạp (cho đầy), còn dư ra, con mua lại)
. Chữ lưa cũng còn có nghĩa là còn
đó như trong hai câu trong bài ca dao Huế:
Cây
đa bến cộ (cũ) còn lưa (còn đó)
Con đò đã khác năm xưa tê rồi
Này lại (mua lại); tiếng này thường
chỉ dùng nơi xóm giềng, thân cận; tương
đương với chữ nhường
lại, chia lại, mua lại . Chứ không dùng
ở chợ búa hoặc nơi mua bán um sùm .
Đập chắc lỗ đầu, vại máu!
(Đánh nhau bể đầu, toé máu!)
Thương bọ mạ để mô ? Để
côi trốt! Chắc chúng ta cũng thường
hay hỏi lũ con lúc chúng vừa tập nói,
vừa biết tỏ tình thương đối
với cha mẹ, câu này có nghĩa: "Thương
bố mẹ để đâu ? Để trên
đầu!" Rồi đưa ngón tay chỉ
chỉ, miệng cười cười, nghe hoài
không biết chán .
Tra trắn rứa mà còn ở lỗ!
(Chững chạc, già đầu vậy mà còn
cởi truồng) . Ở lỗ cũng
xuất hiện trong câu phương ngôn "ăn
lông ở lỗ" hoặc "con gái Nam
Phổ, ở lỗ trèo cau!"
Lên côi độn mà coi (Lên trên đồi mà
xem .) Chữ coi về sau này đã phổ
biến đến nhiều địa phương
khác .
Mự đừng có làm đày! (Mợ đừng
có lắm lời, thày lay) . Riêng chữ cụ
mự thường là dùng cho cậu mợ . Người
Huế ít dùng chữ cụ để
chỉ người già vì đã có chữ ôn
hay ông . Điển hình như cụ Phan
Bội Châu với chuỗi ngày "an trí "
ở Huế, dân Huế đã có tên gọi ông
già Bến Ngự, hoặc trong ca dao Huế, khi nói
đến cụ Phan:
Chiều chiều ông Ngự ra câu
Cái ve cái chén cái bầu sau lưng
Chộ
chưa ? Nỏ chộ !
(Thấy chưa ? Không thấy !) Nỏ là
lối phủ nhận gọn gàng pha chút giận
hờn, chanh cốm như chả biết, chả
ăn, chả thèm vào ! Hắn mô rồi ? Nỏ
biết ! Chữ nỏ biết ở đây pha chút,
chút xíu thôi sự phủi tay về cái chuyện
hắn đang ở đâu ! Tục ngữ
Huế: Có vỏ mà nỏ có ruột .
Khóc lảy đảy, không biết ốt
dột ! (Khóc ngon khóc lành, không biết xấu
hổ!) .
En dòm tui, tui dị òm ! (Anh ấy nhìn tôi, tôi
thẹn quá !) Chữ òm người Huế
vẫn thường dùng để bổ túc cho cái
phủ định của mình: Ngon không ? Dở
òm !
O nớ răng mà không biết hổ ngươi
! (Cô đó sao mà không biết mắc cỡ !)
Hổ ngươi cũng là tên của cây trinh
nữ, cây mắc cỡ . Cũng như xấu
hổ, thẹn, mắc cỡ thì ốt
dột, dị và hổ ngươi có nghĩa
khác nhau tuy chút ít nhưng tinh tế, nhẹ nhàng
.
Chiều hắn cho gắt, hắn được
lờn !: Chiều nó cho lắm vào, nó làm
tới . Mời ôn mệ thời cơm:
Mời ông bà dùng cơm .
Mệ tra rồi mệ chướng: Bà
ấy già nên sinh tật . Chữ chướng,
người Huế cũng thường dùng để
chỉ mấy đấng nhóc tì khóc nhè, bướng
bỉnh hoặc các vị có lối nói, cách hành
xử ngang như cua .
Ăn bụ cua cho hết đái mế: Ăn
vú cua cho hết đái dầm . Chữ bụ
cũng dành cho người và các loài có vú khác . Bụ
mạ là vú mẹ, bọp bụ là bóp .
. .
Bữa ni răng tau buồn chi lạ, buồn
dễ sợ luôn ! (Sao hôm nay tao buồn quá,
buồn quá trời luôn !) . Dễ sợ,
với người Huế không đơn
thuần ở nghĩa thấy mà ghê !
hoặc khủng khiếp quá !, mà còn có nghĩa,
thí dụ: Con nớ đẹp dễ sợ !:
Con bé đó đẹp quá trời !
Răng mà cú tráu rứa tê ?: Sao mà cộc
cằn quá vậy ? Chữ cú tráu nếu phát
âm đúng với giọng Huế thì nghe nặng
hơn chữ cộc cằn nhiều, có lẽ
phải gom thêm mấy chữ như thô lỗ, vũ
phu thì mới lột tả được hết
nghĩa .
Huế nói
trại
Nói
trại là nói sai giọng, không đúng âm theo
giọng viết, nói trại đôi khi cũng dùng
trong trường hợp "nói khác đi, nói cách
khác" . Cách nói bị biến âm này rất
phổ thông ở Huế, nhất là dân cư vùng
biển . Nói trại làm cho âm thanh nặng hơn,
khó hiểu hơn .
Con tâu tắng ăn ngoài bụi te tức là
con trâu trắng ăn ngoài bụi tre . Tời
tong tẻo, nước tong veo: Trời trong
trẻo, nước trong veo .
Hầu hết những từ bắt đầu
bằng "nh" đều được
người Huế nói trại thành "gi":
già (nhà) . Giớ già giớ vợ ở già:
Nhớ nhà nhớ (luôn) vợ ở nhà!
Những từ bắt đầu bằng "s"
thì nói trại ra thành "th": Ăn
thung mặc thướng: Ăn sung mặc sướng
hoặc Thầy gòn là Sài gòn, hoặc
nữa: Noái năng thòng phẳng: nói cho sòng
phẳng, rõ ràng . Lối phát âm của người
Huế không xác định được âm
cuối là "n" hay "ng": Con
thằng lằng chép miệng thở thang!: Con
thằn lằn chép miệng thở than!
Những chữ có âm "o" thường
nói trại ra "oa": Xa voài voại, noái
khôn tới, với khôn được, ngó khôn
chộ: Xa vòi vọi, nói không tới, với
không được, nhìn không thấy! Hoặc
nữa: Đi coai boái, thầy boái noái đi
coai cái voài voai: Đi coi bói, thầy bói nói
đi coi cái vòi voi.
Những chữ có âm "ô", người
Huế thường nói trại thành âm "u":
Thúi trong thúi ra: Thối từ trong ra ngoài. Túi
lửa tắt đèn: Tối lửa tắt
đèn.
Nậy rồi mà mũi rãi
thò lò !: Lớn đầu mà mũi rãi lòng thòng
! Chữ thò lò cũng đã góp mặt trong
ca dao Huế:
Học trò thò lò mũi
xanh
Cầm cái bánh đúc
chạy quanh nhà thầy !
Vô rú mà đốn săng:
Vào rừng mà đẵn gỗ . Săng cũng
đã góp mặt trong mấy câu hò giã gạo
với lối đối đáp rất "văn
hóa" của Huế:
Bên nữ:
Lẻ củi săng
chẻ ra văng vỏ
Bỏ vô lửa đỏ
than lại thành than
Trai nam nhân chàng mà đối
đặng
Thiếp xin kết nghĩa tào
khang trọn đời .
Nghĩa: Cây
củi gỗ chẻ ra văng (Văn) vỏ (Võ),
thảy vô lửa thì thành (Thành) than (Thang) . Cái
kẹt là ý lại thâm hậu, cao xa hơn
nhiều: Văn, Võ Thành, Thang là những vị
vua thời Tam Đại, Tây Châu bên Tàu .
Bên
Nam:
Trâu ăn giữa vạc ló
lỗ
Đã ngụy chưa tề
!
Nam
nhân chàng đã đối đặng
Thiếp đã chịu theo chàng
hay chưa ?
Nghĩa: Con trâu (Trâu) ăn
giữa vạt lúa trổ (Lỗ), sao kỳ quá
vậy ? Ý ư, cũng điển tích như ai:
Trâu, Lỗ, Ngụy Tề là bốn nước
thời Xuân thu Chiến Quốc cũng ở bên Tàu
luôn . Còn hai người có "tào khang"
với nhau được hay không là chuyện . .
. của họ
En trên rầm thượng
bổ xuống, nằm ngay đơ cán cuốc,
phải địu đi nhà thương !: Anh
ấy té trên rầm thượng té xuống,
nằm cứng như cán cuốc, phải
bồng, cõng đi nhà thương ! Đến
đây thì kẻ hèn này hơi kẹt . Rầm thượng
là gác lửng, hay kho chứa bên dưới mái nhà
? Ở Huế, rầm thượng không phải là
chỗ ngủ nghỉ mà là nơi chứa
những đồ gia dụng đáng giá nhưng
phải cỡ nhỏ, vì không có lối lên .
Muốn lên rầm thượng, phải bắc
thang; thân phụ tôi đã dùng rầm thượng
để cất giữ những đồ cổ
vừa phải, không qúy lắm . Còn nếu qúy
nữa thì bỏ vào rương xe, một thứ
tủ thấp đóng bằng gỗ thật dày,
có nắp đậy, có luôn 4 bánh xe để
đẩy vì khiêng không nổi, nặng quá mà !
Mặt bằng của rương xe là cái đi-văng,
tối tối cứ trải chiếu nằm
ngủ trên đó là khỏi lo trộm đạo
.
Nước mắt chặm
hoài không khô, răng khổ ri nì trời !: Nước
mắt lau, thấm hoài không khô, sao khổ vậy
nè trời ! Chữ chặm cũng đã lãng
đãng trong mấy câu hò giã gạo, mà vì não nùng
ai oán quá, nghe hò xong e phải . . . bỏ chày luôn:
Hai hàng nước mắt
như mưa
Cái khăn lau không ráo
Cái áo chặm không khô
Công anh đổ xuống ao
hồ
Quì thưa bẩm dạ
thuở mô đến chừ !
Mặt mày chạu bạu,
ai chịu cho thấu !: Mặt mày một . . .
đống, ai chịu cho nổi ! Chữ thấu
cũng có nghĩa là tới: Kêu trời không
thấu: Kêu không tới trời; Vô thấu trong
Thầy gòn: Vô tuốt trong Sài gòn .
Mả cha cái thằng vô
hậu: Tiên sư cái thằng đoảng .
Ăn trầu cơi
thiếc: Ăn trầu (để) trong hộp,
quả bằng thiếc . Cái cơi thiếc
cũng đã đi vào tục ngữ Huế: Uống
nước chè tàu, ăn trầu cơi thiếc
.
"Mả cha mi" là
tiếng chửi, lời nhiếc mắng rất
thông dụng ở Huế, đồng nghĩa
với "mồ cha mày" . Lối chửi này
ít thông dụng ở những địa phương
khác .
Đi xe hay đi chưn
xuống rứa ?: Đi xe hay đi bộ
xuống đây vậy ?
Túi thùi thui, có chộ chi mô
!: Tối quá, không thấy gì hết !
Rạt gáo rồi mà còn làm
le làm gió !: Cạn túi rồi mà còn làm
bảnh, làm sang !
Ăn đoại cơm
hến, uống đoại nước chè:
Ăn tô cơm hến, uống bát nước chè
(xanh) . Tục ngữ Huế: Ăn lưng đoại,
làm đoại lưng (làm muốn gãy lưng
!) .
Cơm hến, chẳng có chi
cầu kỳ, nhưng nhiều mùi vị với lưng
bát cơm nguội, rau sống, thân chuối non,
rau mùi xắt nhuyễn, nước luộc
hến chan vô, cho chút xíu ruốc, bỏ chút ít
hến xào, thêm vài trái ớt, đúng với cái
ít ỏi của Huế .
Bữa ni
đi kéo ghế: Hôm nay đi ăn nhà hàng . Người
Huế, nhất là ở thôn quê, thường
dọn cơm trên phản, trên tấm ngựa . Không
dọn trên bàn nên khỏi có cái vụ kéo cái
ghế mà ngồi vào bàn . Vì thế, mỗi khi
được dịp đi ăn ở quán,
ở nhà hàng thì gọi là đi kéo ghế .
Huế
làm đày làm láo, Huế nói chữ
Vâng,
người Huế, nhất là mấy o, mấy
mệ thì ưa ăn nói văn hoa chữ nghĩa,
ưa đa sự đa lự, ưa . . . làm đày
làm láo, tức ưa xảnh xẹ, ưa nói lý nói
sự, nói dông nói dài . Thêm vào đó, phải nói
cho hay, khi trầm khi bổng, lúc nhặt lúc khoan
thì "tụng" mới phê ! Cái phong cách noái
lặp đi lặp lại của người
Huế vừa như là một cách nhấn
mạnh, vừa có vẻ dạy đời
lại vừa mang nhiều ý nghĩa khác, xa xôi hơn,
thâm thúy hơn nữa.
Để mô tả cái sự lanh chanh lắm, xí
xọn quá, lu bu lắm . Người Huế ít khi
dùng chữ lắm hay chữ quá mà dùng
điệp ngữ: Cái con nớ, lanh cha lanh chanh
! Mấy mụ o giọn (nhọn) mồm
tức mấy bà chị chồng mỏng mép
của Huế vẫn đôi khi chê em dâu: Răng
mà hắn vô phép vô tắc rứa hè !: Sao mà nó
vô phép quá vậy!
Về màu sắc, người Huế thường
có lối nói điệp ngữ để
nhấn mạnh: xanh lè lè, đỏ lòm lòm, đen
thùi thui, vàng khè khè, tím giắt giắt (tím
ngắt) .
Bởi, cà rịch cà tang rứa mà đoài làm
giôn !: Vậy đó, tà tà, lè phè vậy mà
đòi làm rể ! Còn nữa, để than trách
ông trời sao mưa lâu quá, mấy o ngồi
chỏ hỏ trong nhà dòm ra, chép miệng than dài
than ngắn: Mưa chi mưa mưa thúi đất
thúi đai !.
Một bà mẹ tụng cô con gái, một bà
chị cả mô-ran cô em thứ mà nghe cứ như
là đang đọc một bài đồng giao
với vần điệu, trầm bổng cũng
là một trong những sinh hoạt dưới mái
gia đình: Mi phải suy đi nghĩ lại cho
kỹ ! Mi coi, là con gái con lứa, đừng có
đụng chăng hay chớ, cũng đừng
lật đa lật đật, cũng đừng
có mặt sa mày sỉa . Bọ mạ thì quần
ống cao ống thấp, tất ba tất bật
để nuôi mình . Tau thấy mi rứa, tau cũng
rầu thúi ruột thúi gan !
Cái thông điệp cho thằng em trai thì: Năm
tể năm năm tê, mi còn lẩm đa lẩm
đẩm, mũi rãi thò lò, chừ mi nậy
rồi, phải biết ăn biết noái,
biết goái biết mở, vô khuôn vô phép .
Chớ mai tê mốt nọ mi nên vai nên vế, nên
vợ nên chồng, làm răng mi bông lông ba la hoài
như cái đồ trôi sông lạc chợ cho
được ?!
Mấy ôn, khi giáo huấn con cháu, vẫn thường
trích dẫn ca dao, tục ngữ để đệm
thêm cho ý tưởng của mình: Đó, mi
thấy đó . Ai ơi chớ phụ đèn chai,
thắp trong Cần Chánh rạng ngoài Ngọ Môn .
Mi đoảng, mi vô hậu, được bèo quên
rá, được cá quên nơm; thì mi lấy ai mà
bầu bạn, lấy mô mà tri kỷ !
-------------
Xa Huế đã lâu lắm rồi, từ ngày
vừa biết tập tành đi nghễ mấy o
Đồng Khánh, vừa ngấp nga ngấp nghé
muốn vào (nhưng sợ bị chưởi)
nhấm nháp thử ly cà phê đen sánh của cà
phê Phấn, nơi mà các anh hùng trong thiên hạ
vẫn tấp nập ra vào; và cũng vừa
biết để dành tiền để mua
những tiểu thuyết của Tự Lực Văn
Đoàn tại nhà sách Ưng Hạ . Phong cách
Huế không ít thì nhiều cũng đã phôi pha,
thổ ngữ Huế cũng không mấy khi có
dịp để dùng lại cho đỡ giớ,
cho khỏi quên; thành ra cũng xao lãng đi
nhiều .
Trong cái xao lãng bỗng có ý nghĩ muốn tìm
lại, noái lại tiếng noái của thời cũ
rích cũ rang nhưng đằm thắm đó .
Cho nên chỉ xin được ghi lại đây
những gì còn nhớ mài mại, để
gọi là khơi lại chút âm thanh của
những ngày xưa cũ .
Phan Thịnh
|
|