|
Tiếng
Mẹ Quê Người
Trần
Kiêm Đoàn, Jul 07, 2004
Quê Ta
Tiếng Người (The Fatherland, The Foreign Tongue.
N.Y. 1995). Đây là tác phẩm viết về tâm
sự của một cô gái Mỹ gốc Nhật,
Susan Kumagai, thuộc về thế hệ thứ ba
sinh ra và lớn lên trên đất Mỹ. Cô gái
Phù Tang đă thành tài và từng ấp ủ
ước mơ về phục vụ quê hương.
Tâm lư á châu là một khuynh hướng tâm lư
chuộng chính danh và định phận. Người
nào tiếng ấy rạch ṛi.
Nhưng đến đâu trên quê cha đất
tổ, cô ta cũng bị đồng bào cô
nhạo báng, châm chọc và đối xử
một cách đầy xa lạ chỉ v́ cô không
nói đuợc tiếng Nhật, mà chỉ nói
được tiếng Mỹ. Ngay tại ngôi làng
tổ tiên Hukaido xa xôi của cô, nguời dân
Nhật b́nh thường vẫn kính trọng người
Mỹ nói tiếng Mỹ, nhưng lại xa lánh và
kỳ thị cô gái Nhật mà lại chỉ có nói
tiếng Mỹ. Sau cùng cô gái phải nghẹn ngào,
vội vàng từ giă quê cha với lời than
thở: “Đâu phải lỗi tại tôi!” (It's
not my fault!).
Thế th́ lỗi tại ai? Susan cũng như
hầu hết các em bé Việt Nam lớn lên trên
đất Mỹ đang quên hẳn hay quên
dần tiếng mẹ đẻ đâu phải
tại lỗi các em. Các em đều lớn lên
như một tờ giấy trắng mà những
gịng chữ đầu tiên do cha mẹ và xă
hội thay phiên nhau viết những gịng kế
tiếp. Các em đă quên tiếng Việt rồi
sao? Sao các em lại không biết cất tiếng
chào “Thưa Cô, thưa Bác, thưa Chị, thưa
Anh?”. Sao các em không có được niềm vui
ngày Tết và h́nh ảnh con trâu trên đồng
lúa, con sông xanh ở đầu làng, tiếng ru
của mẹ... có gợi cho em thương
nhớ ǵ không? Tất cả những ǵ đẹp
và thiêng liêng trên quê hương giờ đă xa
khuất bên kia trời trái đất. Suốt ngày
ở trường, ba mẹ đi làm quần
quật, có ai giúp cho em gợi nhớ ǵ đâu?
Lỗi tại ai? Thưa, tại tôi, tại
chị, tại anh, tại chú, tại bác, tại
tất cả chúng ta là những người
phụ huynh có trách nhiệm đang quay cuồng
vật lộn với cuộc sống hàng ngày noi
quê người với biết bao mặc cảm
tự hào lẫn chua xót. Rất đông người
Việt lớn rất nhanh với kiến
thức, bằng cấp, thương măi, nghề
nghiệp, trương mục ở ngân hàng nhưng
rất ít người “lớn” theo kịp
với đà phát triển của con cháu chúng ta
trong cái xă hội Hoa Kỳ phức tạp và
đa dạng này.
Để góp một phần rất nhỏ trong
việc tŕnh bày, phân tích và nhận định
về sự khó khăn của con em chúng ta trong
việc duy tŕ và sử dụng tiếng mẹ
đẻ, tôi chỉ xin phép bàn đến
một vài khía cạnh rất nhỏ và tiêu
biểu trong lănh vực bao la của ngôn ngữ.
Mặc Cảm Về Ngôn Ngữ
Nếu đôi mắt là cửa sổ của tâm
hồn th́ ngôn ngữ là cửa ngơ tư tưởng
và t́nh cảm của mỗi con người. Qua
tiếng nói, người ta có thể gây cảm t́nh,
thuyết phục hay chinh phục; hoặc biểu
lộ tŕnh độ hiểu biết và thân
thế một cách dễ dàng. Xuất thân từ
một đất nước chuộng chữ nghĩa
và lời nói, người Việt Nam chúng ta thường
mang mặc cảm về ngôn ngữ nặng
nề như một cái “khẩu nghiệp”.
Tiếng mẹ đẻ bị phân vùng Trung, Nam,
Bắc, cộng thêm mặc cảm nhà quê hay thành
thị đến nỗi “Chưởi cha không
bằng pha tiếng”. Thêm vào đó, tác dụng
của tiếng nói c̣n bị phụ thuộc
nặng nề vào đẳng cấp xă hội như
“Miệng nhà quan có gang có thép” và người
dân thường th́ phải chịu “thấp
cổ bé miệng”. Tự bản chất,
tiếng nói là một phương tiện
truyền thông như chiếc bè để qua sông.
Nhưng với mặc cảm khá nặng nề
về ngôn ngữ, tiếng Việt thường
xuyên bị thử thách trải qua hàng ngh́n năm
lịch sử, với bao nhiêu cuộc bể dâu
của đất nước, hết bị Tàu
đô hộ, đến Tây xâm lăng, chiến
tranh trường kỳ băo liệt. Không ít người
Việt đă vội vàng quay lưng với
tiếng nói thân yêu của ḿnh để vội
vàng chạy theo những ngôn ngữ mới chân
ướt chân ráo tiếp thu được khi hoàn
cảnh thay đổi.
Thời cận đại, khi tiếp xúc với văn
hóa Tây phương, tiếng Tây đă trở thành
một thứ ngôn ngữ “cao quư” đến
nỗi cứ hễ nói tiếng Việt mà chêm vào
đuợc tiếng Tây, bất luận là
loại tiếng Tây nào, kể cả tiếng Tây
bồi bếp, bâng quơ... cũng được
liệt vào hạng "văn minh” và “thông thái”!
Trong giai đoạn này, đă có rất nhiều
người Việt Nam theo “Tây học” đă công
khai chối bỏ tiếng nói thân yêu của
tổ quốc, để chế nhạo, khinh
miệt và vùi dập ngôn ngữ Việt Nam như
là một thứ tiếng thấp hèn, nghèo nàn,
lạc hậu, vay mượn và thiếu sức
sống (!).
Khi qua Mỹ, mặc cảm ngôn ngữ tuy không c̣n
gay gắt trong một xă hội đa chủng v́
tiếng Anh được chọn làm ngôn ngữ
tiêu chuẩn (official language), tiếng Việt
chỉ c̣n là phương tiện riêng tư
giữ người Việt với nhau. Thế nhưng
cái mặc cảm đó vẫn cứng đầu,
ló mặt thường xuyên trong cuộc sống
Việt-Mỹ hàng ngày. Tôi đă từng gặp
trong lớp học, nơi hội hè ở
nhiều nơi những t́nh huống buồn cười
một cách xót xa khi một người Việt
mới đến xứ nầy nhưng đă nói
được tiếng Anh một cách lưu loát
th́ người ta cho đó như một điều
đương nhiên chẳng ai để ư. Nhưng
ngược lại, một người Mỹ
học tiếng Việt lâu ngày mà nói được
một câu tiếng Việt trọ trẹ th́
mọi người lấy làm cảm kích và
vỗ tay bôm bốp. Tiếng Việt như
một con bệnh nằm liệt giường lâu
ngày, nay có người tốt bụng vực
dậy làm mọi người hồ hởi.Thái
độ tiêu cực v́ mặc cảm tự ti
về ngôn ngữ Việt Nam đă bị thực
tế hùng hồn đánh bạt. Với sức
sống tự cường của hàng ngh́n năm
lịch sử, tiếng Việt Nam, qua những người
con ưu tú, đă chững chạc vươn lên
bằng một h́nh thức văn tự mới
với những phong trào chữ Nôm và Quốc
ngữ. Những công tŕnh sáng tác và biên khảo
bằng tiếng Việt thuần túy đă phôi
thai, khôn lớn và trưởng thành theo sự
lớn mạnh và trường tồn của
lịch sử dân tộc. Nh́n về lịch
sử và văn hóa dân tộc, so với tất
cả các nước lân bang ở Á Châu, chúng ta
có quyền tự hào về sự phong phú của
gia tài ngôn ngữ Việt Nam.
Từng bước một, tiếng Việt đă
chiến thắng những loại “chuyển
ngữ” Tàu, Tây để đi vào ḷng dân
tộc. Tùy theo sự phát triển cùng yêu cầu
của từng giai đoạn, tiếng Việt
đă tự chứng tỏ khả năng mềm
dẻo, bao la, phong phú và da dạng trong mọi lănh
vực văn chương, khoa học xă hội và
khoa học thực nghiệm.Trở lại với
hiện thực tiếng Việt trên đất
Mỹ, chúng ta không thể chối căi rằng, bên
cạnh tiếng Anh, mặc cảm tự ti (cũng
có thể là tự tôn nhưng rất hiếm)
về tiếng Việt vẫn c̣n ám ảnh
một cách nặng nề trong cộng đồng
người Việt như hồn ma Đạm Tiên
cứ đeo đẳng măi Thúy Kiều. Xuất
phát từ mặc cảm tự ti về tiếng
Việt trước thế mạnh của
tiếng Anh, kết hợp với kinh nghiệm xót
xa về sự bất đồng ngôn ngữ trên
bước đường tỵ nạn, phụ
huynh chúng ta ai cũng muốn con em ḿnh cần
phải học tiếng Anh càng nhiều, càng nhanh,
càng tốt. Đồng thới cũng đă có
rất nhiều phu huynh đă dùng sai “đơn
vị đo lường” khi căn cứ trên
khối lượng và tốc độ nói
tiếng Anh của con em ḿnh nói với nhau hàng ngày
(không kể là nói ǵ và nói thế nào) để
đánh giá khả năng và tŕnh dộ học
tập của con em ở trường học.
Tiếng Việt do đó đă trở thành
một người bạn lỗi thời
“Vắng mợ th́ chợ cũng đông, mợ
đi trong Quảng ai trông mợ về!”.
Thái độ và phản ứng của phụ
huynh đối với vấn đề tiếng
Việt của com em tuy có khác nhau về hiện tượng
nhưng bản chất cũng chỉ là một.
Ai cũng nóng ḷng mong muốn, dù phải hy sinh
nhiều giá trị quư báu, cho con em ḿnh khôn
lớn, được học tập thành tài, và
tạo đuợc một thế đứng
vững vàng trong xă hội Mỹ. Nếu chúng ta
tạm đồng ư với nhau trên quan điểm
“tất cả v́ thế hệ trẻ con em
của chúng ta” đó, hăy thử tiến xa thêm
một bước nữa để bàn về
mối quan hệ giữa tiếng Việt và
khả năng học tập của con em chúng ta.
Vấn đề không c̣n nằm ở mức
độ chủ quan và cảm tính v́ “cha thích,
mẹ thích, con thích, hay dân tộc Việt Nam thích”
nữa, mà cần phải căn cứ vào
những dữ liệu khách quan của các
cuộc kiểm nghiệm và nghiên cứu về ngôn
ngữ gần đây để tŕnh bày và
thảo luận. Tiếng Việt và Trí Thông Minh.
Dù muốn hay không, người Việt trên đất
Mỹ vẫn đương nhiên được
xem là nhóm dân tộc thiểu số và tiếng nói
vẫn thuộc về lănh vực Song Ngữ
Việt-Mỹ. Nếu chúng ta chỉ dùng tiếng
Mỹ để thay thế hẳn cho tiếng
Việt th́ ở vào trường hợp Song
Ngữ Loại Trừ (Subtractive Bilingualism), nghĩa
là cái gốc vẫn là song ngữ nhưng khả
năng đă mất đi tiếng mẹ đẻ;
hoặc dùng song song tiếng Việt và tiếng
Mỹ th́ ở trường hợp Song Ngữ
Cộng Hưởng (Additive Bilingualism). Thật ra,
Mỹ là quê hương của dân di cư, cho nên
vấn đề Song Ngữ (Bilingual) và Đa Ngữ
(Multi-lingual) đă được đặt ra
gần một thế kỷ này. Rất nhiều
nhà chính trị và giáo dục Mỹ từ
những năm đầu của thập niên 1900
đă băn khoăn trước vấn đề:
“Một đứa trẻ học cùng lúc hai
thứ tiếng sẽ có kết quả tốt hơn
hay dở hơn so với đứa trẻ
chỉ học độc nhất tiếng Anh?”.
Trong lúc thực tế đă có đến 46.5
triệu người (chiếm 17.5% toàn dân số
Mỹ) có tiếng mẹ đẻ không phải là
tiếng Anh hiện diện trên đất Mỹ
(Wagoner 1996). Đă có tới hàng trăm cuộc nghiên
cứu và qua nhiều cuộc hội nghị,
thảo luận, tranh luận... ở nhiều
tầm mức địa phương, quốc gia
và quốc tế để t́m câu trả lời
thỏa đáng cho câu hỏi này. Bên cạnh
những dư luận chống đối về
sự hiện diện của chương tŕnh
song ngữ v́ đặt nặng tính chất chính
trị và kinh tế hơn là tính chất văn hóa
hay giáo dục của vấn đề, các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ và giáo dục trên
khắp thế giới đă mở ra nhiều chương
tŕnh giáo dục thí nghiệm khác nhau để xác
định một cách khoa học và thực
tiễn tác dụng của hai thứ tiếng cùng
một lúc đi vào trí óc của các em. Những
công tŕnh nghiên cứu nổi tiếng và gần
đây nhất được kể đến là:
Tại Ontario và nhiều nơi ở Canada (do
Liedtke và Nelson thực hiện năm 1968; Bain 1974;
Cummins va Gulustan năm 1974). Tại Thụy Sĩ
(Balkan 1970) , Do Thái (Ben-Zeev 1977), Nam Phi (Janco-Worrall
1972), Mỹ (Ben-Zeev 1977; Duncan và De Avila 1979).
California (O'Malley, J.M. 1992; National Society for the Study of
Education 1994, 1996, 1997). National Clearinghouse for Bilingual
Education 1984, 1992, 1997)... kết quả những công
tŕnh thăm ḍ và nghiên cứu này đă rất
thống nhất trên luận điểm cơ
bản rằng: “Khả năng song ngữ hoàn toàn
không có tác hại ǵ trong khả năng nhận
thức và học tập của học sinh trong nhà
trường và ngoài xă hội; ngược
lại, khả năng song ngữ giúp học sinh
trở thành đa dạng và phong phú hơn trong
hầu hết các môn học.”
Giáo sư Kenji Hakuta của đại học Yale
đă đi vào cụ thể hon bằng cách
chọn nhiều h́nh thức trắc nghiệm cho
học sinh hai nhóm Song Ngữ và Đơn Ngữ
trong nhiều năm đă đi đến kết
luận rằng: " Chọn một nhóm học
sinh biết nói hai thứ tiếng để thi
đua với một nhóm học sinh khác chỉ
biết một thứ tiếng, cùng lứa
tuổi, cùng tŕnh độ, cùng hoàn cảnh xă
hội, cùng điều kiện sinh hoạt như
nhóm kia. Xong rồi, chọn một biện pháp
để đo khả năng nhận thức áp
dụng chung cho cả hai nhóm. Kết qủa: nhóm
song ngữ đạt được luôn luôn
sẽ tốt hơn." (Hakuta. Mirror of Language 1986.
Tr. 35).Cùng nhận xét như trên, hai nhà nghiên
cứu về sự quan hệ giữa khả năng
song ngữ và trí thông minh, tại Canada là Elizabeth
Pearl và Wallace Lambert (1982) sau nhiều công tŕnh t́m ṭi
đă phấn khởi nhận xét: “Một đứa
trẻ có sự hiểu biết về cả hai
hai ngôn ngữ và hai nền văn hóa có được
nhiều thuận lợi hơn là một đứa
trẻ chỉ biết một ngôn ngữ và
một cách sống. Về phương diện trí
thức, sự hiểu biết cả hai hệ
thống ngôn ngữ dường như đă lưu
lại cho nó một sự phóng khoáng về trí óc,
một sự ưu tú về tư tưởng và
khả năng phong phú đa dạng của lư trí.
Trái lại, đứa trẻ chỉ biết
một ngôn ngữ th́ những yếu tố
cấu tạo trí thông minh của nó đơn
thuần và hạn hẹp hơn” (Lambert, W.E. và
E. Anisfield. 1969. A Note On the Relationship of Bilingualism and
Intelligence).
Sự Quan Hệ Mật Thiết Giữa
Tiếng Việt và Tiếng Mỹ
Phụ huynh vẫn thường suy nghĩ
đơn giản là cho dù con em ḿnh có giỏi
tiếng Việt cũng chẳng có lợi ǵ cho
việc học tiếng Mỹ tại trường.
Thực tế và khoa ngôn ngữ học đă
chứng minh ngược lại. James Cummins khi bàn
về sự liên hệ giữa tiếng mẹ
đẻ (tạm ghi kư hiệu là L1: Tiếng
Việt và ngôn ngữ thứ hai, L2: Tiếng
Mỹ) đă hoàn toàn bênh vực cho khuynh hướng
hiện đại và thực tiễn của các
nhà ngôn ngữ học khi chứng minh rằng: Có
những điểm chung nhất nằm giữa L1
và L2. Những kiến thức đă học trong
L1 có thể đương nhiên được
chuyển qua cho L2 mà khỏi cần bắt đầu
học lại. Ví dụ: trường hợp
một học sinh vốn đă thông thạo
tiếng Việt khi học tiếng Anh sẽ
rất nhanh so với một người bạn
Việt Nam khác vốn rất kém cỏi tiếng
Việt cùng bắt đầu học Anh văn và
ngược lại. Nói một cách cụ thể
hơn, ví như khi một học sinh Việt Nam
đă hiểu được khái niệm của
từ “Dân chủ” trong tiếng Việt
chẳng hạn, nếu khi học tiếng Mỹ
th́ chỉ cần chuyển thành “Democracy” mà
khỏi cần phải học lại từ đầu
toàn bộ ư nghĩa và khái niệm của từ
nầy. Tương tự như thế, tất
cả kiến thức, nghệ thuật, khái
niệm học được trong tiếng
Việt hoặc tiếng Anh đều có sự tác
động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau.
Quan điểm “ Sự thông thạo nằm riêng
giữa hai ngôn ngữ” (The Separate Underlying
Proficiency Model of Bilingual Proficiency) (Xem H1) đă không
thể đứng vững trước thực
tế: Có “Sự thông thạo nằm chung
giữa hai ngôn ngữ” (The Common Underlying Proficiency
Model of Bilingual Proficiency) (Xem H2 và H3. - Cummings:
Schooling and Language Minority Student: A theoretical Framework.
Tr. 23 và 24).
Thêm những bằng chứng rất thực
tiễn đă diễn ra trong tập thể người
Việt tại Mỹ trong những năm gần
đây, đó là trường hợp thành công
của đại đa số các con em “H.O”
trong nhà trường của Mỹ. Rơ ràng là các
em qua Mỹ vào độ tuổi trưởng thành,
nên không có sự chọn lựa nào khác hơn là
phải sử dụng song ngữ, nói cùng lúc hai
thứ tiếng Việt và Mỹ song song. Thế
nhưng trong học vấn, phần đông các em
đă tận dụng được kiến
thức đă học được từ trong
tiếng Việt, chuyển sang tiếng Mỹ
một cách vô thức hay hữu thức. Những
học sinh, sinh viên Việt Nam mới qua không
những “sống c̣n” mà sống mạnh,
sống hùng trong môi trường tiếng Mỹ.
Đưa ra một vài dẫn chứng nhỏ để
nói lên sự suy nghĩ của chúng tôi rằng,
việc khuyến khích các em học tiếng
Việt không phải là v́ “thể diện” gia
đ́nh hay danh dự hăo huyền hoặc muốn
làm vui ḷng bà con Việt Nam với nhau mà chính là
v́ quyền lợi lâu dài của con em chúng ta.
Bất cứ xă hội nào, cha mẹ và người
thân luôn luôn là những người thầy đầu
đời để giáo dục không ngừng
về phong cách sống mà c̣n giáo dục cả
một khối lượng kiến thức
khổng lồ về mọi mặt. Từ
một bài hát, câu ḥ đến những câu
chuyện cổ tích, một lời nói khôi hài,
một vài nhận xét khen chê trong cuộc sống
sẽ là những bài học có gía trị cho con
em sau này. Nếu con em chúng ta không có khả năng
về tiếng Việt tức là phụ huynh đă
vô t́nh từ khước cái vai tṛ thầy giáo
trong buổi b́nh minh làm người của các em
rồi đó.Trong các công tŕnh nghiên cứu
xuất bản năm 1986, 1994 đề cập
đến sự thành công và thất bại trong
trường học của nhóm học sinh
thiểu số, giáo sư John U. Ogbu của trường
Đại Học Berkely và giáo sư Maria Eugenia
Matute-Bianchi của đại học Santa Cruz đă
phân tích và nhận định về nhóm
thiểu số thất bại thê thảm nhất
trong trường học đó là nhóm học sinh
người Mễ và nhóm thiểu số thành công
trong trường học đó là nhóm học sinh
người Trung Hoa. Giải thích về nguyên nhân
thành công của nhóm học sinh Trung Hoa trên đất
Mỹ, tác giả đă đưa ra những nét
tiêu biểu như sau:
1. Người Tàu đă mang theo truyền văn hóa
sang đất Mỹ: Hiếu học, tôn trọng
sự học vấn, tự hào về nền văn
hóa dân tộc của ḿnh.
2. Sự ảnh hưởng sâu đậm của
gia đ́nh: Cha mẹ hy sinh tất cả cho con cái
được ăn học và ngược
lại con cái biết vâng lời, kính trọng và
cố sống xứng đáng với t́nh thương
của cha mẹ khi c̣n đi học cũng như
khi đă ra đời.
3. Ảnh hưởng nền giáo dục gia đ́nh,
học sinh Trung Hoa vào trường biết vâng
lời, kính trọng thầy giáo và người
lớn tuổi, có tinh thần trách nhiệm nên
phần đông được thầy giáo và nhân
viên nhà trường qúy mến và tận tâm giúp
đỡ.
4. Mặc dầu chữ Tàu và chữ Anh hoàn toàn
khác biệt, ngôn ngữ gia đ́nh thường là
tiếng Tàu, cách học ở Mỹ khác hẳn
ở Trung Hoa nhưng với sự thông minh,
nhạy bén, và cần cù, học sinh Tàu đă làm
hết sức ḿnh để vượt qua
những khó khăn để đạt những
thành tựu xuất sắc trong - trường
học. (Beyond Language: Schooling Language Minority Student.
1986. Tr. 73-134).
Chúng ta thấy những yếu tố căn
bản giúp học sinh Tàu thành công th́ cũng là
những nét quen thuộc của phụ huynh và
học sinh Việt Nam. Chúng ta sẽ khỏi
lấy làm tiếc về sau nếu phụ huynh tăng
cường nền giáo dục gia đ́nh và giúp
cho con em biết tự hào về truyền
thống văn hóa Việt Nam qua việc học và
duy tŕ tiếng Việt.
Từ “Melting Pot” và “Salad Bowl” đến
kết luận
Có nhiều học sinh và sinh viên Việt Nam
chỉ thích làm người Mỹ. Vâng, điều
này rất đơn giản v́ chỉ cần năm
năm thường trú không phạm pháp trên đất
Mỹ là các em đă trở thành “người
Mỹ” được rồi. Nhưng nếu các
em muốn từ “Vietnamese-American” biến thành
“Anglo-American” th́ đó chỉ là ư nghĩ
viễn mơ không biết ta mà cũng chẳng
hiểu người. Lịch sử xă hội
đă cho thấy rằng, cách đây hơn
một nửa thế kỷ, các nhà xă hội
học Hoa Kỳ đă đồng ư với
thuyết “Melting Pot” nghĩa là nền văn hóa
ưu việt cuả người Mỹ-Anglo
sẽ đồng hóa tất cả nền văn
hóa của người di dân vào đất nước
này trong “cái nồi xúp nóng chảy” đó. Nhưng
qua thực tế, tượng Nữ Thần
Tự Do Vẫn đứng song song với Vạn
Lư Trường Thành. Rặng núi Rocky Mountains không
cao hơn nổi Hy Mă Lạp Sơn và những gịng
sông sông Mississippi, Hoàng Hà, Cửu Long vẫn
cứ theo gịng riêng tư chảy hoài ra biển,
nên dân tộc nào vẫn giữ nguyên nền văn
hóa của dân tộc đó trong cái đất nước
tự do và hiệp sĩ này. Bởi vậy, v́
thấy thuyết “Melting Pot” không có tác dụng
nên một thuyết khác ra đời, đó là
thuyết “Salad Bowl”. Thuyết này mô tả và
chấp nhận xà hội Hoa Kỳ như dĩa xà
lách: Có rau có trứng, có tiêu, muối, tỏi,
ớt, hành, vị tinh, nước xốt...
Mỗi thứ mang một tính chất độc
đáo riêng biệt. Đây là h́nh ảnh biểu trưng
của một xă hội Hoa kỳ gồm nhiều
dân tộc khác nhau, có riêng nền văn hóa,
sống chung ḥa b́nh để góp phần xây
dựng xă hội. Tôi không hiểu trong dĩa xà
lách này, dân Việt Nam đóng vai ǵ trong đó? Là
rau? Là muối? Là tiêu? Là hành? Nhưng chắc
chắn chúng ta không thể nào biến thành
một thứ “siêu nhân” bay vù vù một ḿnh trên
đầu các dân tộc khác như trong phim
Superman được. Nếu chúng ta là muối?
Th́ tất nhiên chúng ta phải mặn. Nếu chúng
ta là người Việt Nam? Th́ phải biết nói
tiếng Việt Nam. Muối không mặn: Là
muối giả! Người Việt Nam không
biết nói tiếng Việt: Chỉ c̣n là
mảnh h́nh hài Việt Nam ngoài vỏ. Nếu chúng
ta không thể xác định ḿnh là chất ǵ
trong dĩa xà lách Hoa Kỳ, không lẽ ta là con
ruồi hay cọng rác cần phải vất đi
sao?
Câu trả lời đă hiện rơ nét ngay trong câu
hỏi.
http://www.calitoday.com/news/view_article.html?article_id=9b10e4979c947c422c550f2f83d917c0
|
|