|
CHƯƠNG NĂM : PHÉP KỴ
HÚY
Mục đích của chương này là t́m
hiểu phép kỵ húy là ǵ và ảnh hưởng
của nó thế nào đối với xă
hội. Việt Nam du nhập tục lệ này
từ Trung Quốc nên muốn hiểu tục
lệ kỵ húy tại Việt Nam, ta cần
biết đại cương về tục
lệ kỵ húy tại Trung Quốc. Do đó,
nội dung chương năm gồm hai
tiết: tiết A : t́m hiểu phép kỵ húy
tại Trung Quốc, tiết B : t́m hiểu phép
kỵ húy tại Việt Nam.
TIẾT A. PHÉP KỴ HÚY TẠI TRUNG
QUỐC
1. Định Nghĩa: Theo Hán Việt
Tự Điển của Đào Duy Anh, kỵ húy
hay tỵ húy có nghĩa là kiêng tránh. Về
mặt pháp chế sử, kỵ húy là
một định chế chính trị
được triều đại nhà Chu
đặt ra để ngăn cấm dân gian
đọc hay viết tên vua. Ư hướng
của pháp chế này là gây ấn tượng
thần thánh trong ḷng dân chúng đối
với vương quyền. Từ chốn
triều đ́nh, pháp chế này lan ra ngoài dân
gian và được áp dụng trước
hết cho thần thánh, đến giai cấp
quư tộc, và sau cùng là toàn xă hội. Khi
ở mức toàn xă hội, th́ định
chế chính trị này biến thành tục
lệ mang tính đạo đức. Cữ tên
là giữ lễ, là khuôn phép đạo đức
của nền luân lư Khổng Mạnh. Do
vậy, thay v́ nói tục lệ kỵ húy, người
xưa nói là phép húy.
2. Nguồn Gốc Phép Kỵ Húy: Theo Lư
Nham Linh và Cố Đạo Hinh, tục lệ
kỵ húy bắt đầu có tại Trung
Quốc từ thời Tây Chu (1045-771 TCN) và kéo
dài hết đời nhà Thanh (1644-1912). Tuy nhiên,
việc áp dụng phép húy chặt chẽ hay
lỏng lẻo là tùy mỗi triều đại,
mỗi ông vua. Nói chung, triều đại nào
ở Trung Quốc cũng áp dụng phép húy
cho vị sáng lập triều đại, vua
đang trị v́, và 6 vị tiền
nhiệm. Tổng cộng là 8 vị. Bảy
trong 8 vị được thờ trong thái
miếu nên phép kỵ húy liên hệ đến
sự thờ cúng tổ tiên. Ngoài tên vua, phép
kỵ húy có thể bao gồm tên hoàng
khảo, hoàng hậu, tên lăng miếu.
Ngoài dân gian, phép húy được áp
dụng cho những người lớn
tuổi, các chức việc chánh quyền, các
thần thánh. Trong gia đ́nh, phép húy
được áp dụng cho những bậc
có vai vế trên ḿnh như ông bà, cha, mẹ,
bác, chú. Nói chung là các bậc trưởng thượng.
3. Phân Loại Kỵ Húy: Có ba loại
kỵ húy là quốc húy, thánh húy và gia húy.
Quốc húy thuộc loại trọng húy là tên
các vua mà thần dân tuyệt đối
phải tránh. Thánh húy là tên của các
thần thánh trong đ́nh miếu. Gia húy là tên
mà con cháu phải tránh v́ đó là tên
của các bậc trưởng thượng
trong gia đ́nh.
Nếu căn cứ theo tầm mức quan
trọng th́ có hai loại kỵ húy. Trọng
húy áp dụng cho tên vua sáng lập triều
đại và vua đang trị v́. Khinh húy áp
dụng cho tên các vua đă chết và tên
những người thân thuộc như hoàng
khảo, hoàng hậu, hoàng thái hậu, tên
đệm, đôi khi cả niên hiệu
của vua đang trị v́.
4. Phương Pháp Tránh Phạm Húy: Để
tránh phạm húy, người Trung Quốc
đă áp dụng 5 phương pháp sau:
a. Phương pháp dùng tên tự: Phương
pháp này thường được các
sử gia áp dụng. Để tránh tên chính,
sử gia dùng tên tự của người
ấy. Ví dụ khi viết về Hán Cao
Tổ, thay v́ phải nói tên chính là Lưu
Bang th́ Tư Mă Thiên đă chép: Cao Tổ người
làng Trọng Dương, ấp Phong, quận
Bái, họ Lưu, tên tự là Quư.
b. Phương pháp khuyết tự: Theo
phương pháp này, người ta bỏ
trống chỗ đáng lẽ phải
viết tên, hoặc khoanh tṛn, hoặc ghi
chữ Húy, hoặc viết chữ Mỗ là
đại danh từ không chỉ cái ǵ. Phương
pháp này dùng cho các trường hợp
trọng húy.
c. Phương pháp cải tự: Theo phương
pháp này, người ta có thể thay thế
tiếng húy bằng tiếng đồng nghĩa,
hay tiếng có sự liên hệ mật
thiết đến tên phải kiêng cữ. Phương
pháp này có từ thời nhà Tần (221-207
TCN). Tần Trang Tương Vương có tên
húy là Sở nên khi Vương Tiến đánh
nước Sở, sử chép là đánh nước
Kinh. Như vậy Sở đổi thành Kinh.
Tần Thủy Hoàng tên húy là Chính, nên tháng
Giêng Âm Lịch gọi là Chính Nguyệt
được đổi thành Đoan
Nguyệt. Nhà Hán húy chữ Bang, trong tên
của Lưu Bang, nên Bang đổi thành
Quốc, và húy chữ Doanh đổi thành
chữ Măn. Khi đổi thành chữ khác,
nguyên tắc là phải chọn chữ đồng
nghĩa: Chính và Đoan đồng nghĩa,
Bang và Quốc đều có nghĩa là nước,
Doanh và Măn có nghĩa là đầy đủ.
Phương pháp cải tự dành cho trường
hợp trọng húy.
d. Phương pháp khuyết bút: Từ
đời vua Cao Tông nhà Đường
(tr.v.650-683), để tránh húy, người ta
áp dụng phương pháp khuyết bút là phương
pháp bỏ bớt đi một nét trong
chữ phải kiêng húy. Phương pháp này
áp dụng cho trường hợp khinh húy.
e. Phương pháp cải âm: Phương
pháp này áp dụng trong lời nói. Để
tránh kỵ húy, người ta có thể nói
trại, tức phát âm trệch đi một
tí. Ví dụ tên húy của Tần Thủy Hoàng
là Chính có thể phát âm là Chinh. Chính và Chinh
có ư nghĩa khác nhau.
5. Biện Pháp Chế Tài: Đối
với những người phạm húy,
biện pháp chế tài được các
triều đại Trung Quốc áp dụng khác
nhau. Theo luật nhà Đường, người
cố t́nh xúc phạm tên húy của các nhà
vua thờ trong thái miếu, sẽ bị
phạt tội đồ 3 năm. Nếu
lầm lỡ, bị đánh từ 80 trượng
đến 50 roi, tùy theo trường hợp
nặng nhẹ. Luật nhà Minh và Thanh
phạt nặng hơn, từ 100 trượng
đến 90 roi.
6. Ảnh Hưởng Của Tục Kỵ
Húy: Tại Trung Quốc, tục lệ
kỵ húy đưa đến sự thay
đổi tên người, địa danh, tên
quan chức, tên vật. Xin nêu một số
thí dụ:
a. Thay đổi về tên và họ. Theo
Lư Nham Linh và Cố Đạo Hinh, Văn
Ngạn Bác trước đây có họ Kính.
Cụ tổ bốn đời v́ tránh
chữ Kính trong tên Thạch Kính Đường,
nên đổi họ Kính ra họ Văn.
Đến đời Hán, gia tộc này
lấy lại họ Kính, nhưng đến
đời Tống, lại đổi thành
họ Văn. Tống Cao Tông có tên húy là
Triệu Cấu nên họ Cú, một ḍng
họ rất lớn, phải đổi thành
nhiều họ. Họ Cú phải đổi
sang họ khác v́ Cú và Cấu trong tiếng Hán
có mặt chữ rất giống nhau.
b. Thay đổi về danh xưng cơ quan
công quyền: V́ tránh tên húy của
Đường Cao Tông là Lư Thế Dân mà Dân
Bộ phải đổi ra Hộ Bộ.
c. Thay đổi về địa danh: V́
tránh tên húy của Triệu Vương là Lưu
Lương mà địa danh Thọ Lương
đời Hán đổi thành Thọ Trương.
d. Thay đổi ngôn ngữ thông thường.
V́ kỵ húy tên mẹ của Tư Mă
Lập là Xuân mà bộ sách Xuân Thu phải
đổi ra Dương Thu. V́ kỵ húy tên
Trĩ của Hán Lă Hậu mà chim trĩ
phải đổi ra dă kê.
e. Tạo ra một thứ tên mới
gọi là tên tự: Trong Hán văn,
chữ Tự có nhiều nghĩa. Chữ
tự trong Tên Tự được viết
với bộ nhân có nghĩa là giống như.
Tên tự là tên giống như tên chính. Người
Trung Quốc đặt ra tên tự để
người khác dễ dàng tránh tên húy
của ḿnh. Tên tự đă được
chúng tôi tŕnh bày trong chương một,
mục hai.
|
TIẾT B. PHÉP KỴ HÚY
TẠI VIỆT NAM
Việt Nam bị lệ thuộc Trung Quốc
từ đời nhà Hán đến đời
nhà Đường, đồng thời
bị ảnh hưởng văn hóa Trung
Quốc nên Việt Nam cũng áp dụng
tục kỵ húy như tại Trung Quốc.
1. Lịch Sử Phép Kỵ Húy Tại
Việt Nam: Đọc cổ sử, từ
thời Hùng Vương dựng nước
đến triều đại Lê Đại Hành
(980-1005), ta không thấy sử liệu nào
đề cập đến vấn đề
kỵ húy. Sau đời Lê Đại Hành,
sử Việt bắt đầu ghi chép
tục lệ này. Ta lần lượt
duyệt qua từng triều đại:
a. Thời vua Lê Ngọa Triều (1005-1009): Đại
Việt Sử Kư Toàn Thư cho ta một chi
tiết nhỏ như sau: Mậu Thân, niên
hiệu Cảnh Thụy năm thứ nhất
(1008) vua thân đi đánh hai châu Đô Lương,
Vị Long bắt được người
Man và vài trăm con người, sai lấy
gậy đánh, người Man đau quá kêu
gào, nhiều lần phạm tên húy của
Đại Hành, vua thích lắm.
Qua câu văn trên, ta thấy tục lệ
kỵ húy đă có tại Việt Nam. Tuy nhiên,
việc áp dụng chưa được coi
trọng.
b. Sang đến nhà Lư (1010-1225): Không có
sử liệu nào cho biết triều đại
này có áp dụng phép húy hay không và phải
kiêng tránh những chữ nào. Chỉ có tài
liệu nói năm Kỷ Mùi, niên hiệu
Thuận Thiên thứ 10 (1019), vua Lư Thái Tổ
cho lập thái miếu ở lăng Thiên Đức.
Với tài liệu gián tiếp này, ta có
thể suy đoán là triều Lư cũng có
tục kỵ húy v́ phép húy có liên hệ
đến việc thờ cúng tổ tiên,
tức việc thờ các vua tiền nhiệm
trong thái miếu.
c. Đến đời nhà Trần
(1225-1413): Phép húy được quy định
rơ ràng và mở rộng. Năm 1232, Trần
Thái Tông ban bố các chữ quốc húy và
miếu húy. Đồng thời, trong mưu
đồ tận diệt nhà Lư, Trần Thái
Tông bắt đổi triều Lư thành
triều Nguyễn, với lư do kỵ húy tên
của nguyên tổ là Lư. Sang đời vua
Trần Anh Tông, năm 1294, vua ban bố các
chữ quốc húy:
Chữ húy của vua là Thuyên, của Nhân Tông
là Khâm, của Thánh Tông là Hoảng, của
Thái Tông là Cảnh, của Thái Tổ là
Thừa, của Nguyên Tổ là Lư. Các chữ
nội húy: Thánh Từ hoàng hậu là Phong,
Thuận Từ hoàng hậu là Diệu,
Hiển Từ hoàng hậu là Oanh, Nguyên Thánh
hoàng hậu là Hâm.
Năm 1298, niên hiệu Hưng Long, nhà vua ban
thêm hai chữ húy là Ngụy và Châu.
Năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hưng Long
1290, nhà vua ban thêm các chữ húy của Khâm
Minh Đại Vương là Liễu,
Thiện Đạo quốc mẫu là
Nguyệt. Hai chữ Liễu và Nguyệt khi làm
văn không được dùng đến. Các
chữ Ngụy, Thấp, Nam, Càn, Tô, Tuấn,
Anh, Tảng khi làm văn, phải viết
bớt nét. Nhà Trần bắt đầu kiêng
húy tên họ ngoại từ đây.
Gần 100 năm sau, năm 1395, vua Trần
Thuận Tông (Tr.v.1388-1398) bỏ húy chữ
Nguyệt và Nam, cho dùng lại như cũ.
Qua việc định phép húy trên đây, ta
thấy nhà Trần quy định rất minh
bạch và mở rộng phạm vi kỵ húy.
Đến khi tha húy, triều đại này cũng
ra sắc lệnh rơ ràng.
d.Sang triều đại hậu Lê
(1428-1788): Vua Lê Thái Tổ (1428-1433) ra
lệnh về vấn đề kỵ húy
được Đại Việt Sử Kư Toàn
Thư ghi như sau:
Ngày 20 ban các chữ húy tông miếu và
chữ húy tên vua. Tất cả các chữ chính
húy khi viết đều không được
dùng, nếu đồng âm mà khác chữ th́
không phải húy. Húy tông miếu có 5 chữ:
Hiển Tổ Chiêu Đức Hoàng Đế
húy là Đinh, Hiển Tổ Tỷ Gia
Thục Hoàng Thái Hậu húy là Quách, Tuyên
Tổ Hiến Văn Hoàng Đế húy là Khoáng,
Trinh Từ Ư Văn Hoàng Thái Hậu húy là Thương,
Húy của vua là Lợi, của hoàng hậu là
Trần, của anh vua là Học.
Đời Lê Thái Tông (1433-1442), năm 1435, vua
quy định không được viết
những chữ chính về miếu húy hay
ngự danh. Ai có họ tên trùng với
chữ húy của Cung Từ Quốc Thái
Mẫu là Trần nên phải đổi thành
Tŕnh. Đời Lê Nhân Tông (1442-1459), năm
1443, vua ban bố hai chữ húy. Tên vua là Cơ,
tên húy của hoàng hậu là Anh, cộng
với miếu húy, tất cả là 7 chữ.
Đời Lê Thánh Tông (1460-1497), năm 1462,
khi ấn định phép thi Hương, nhà
vua ra lệnh: Chữ húy của quốc
triều nếu hai chữ liền nhau th́
đều không được dùng, nếu
rời ra chữ một th́ cũng cho dùng thay
chữ khác, khuyên ở bên ngoài.
Đời Lê Chiêu Tông (1516-1522), năm 1517,
vua sai Lễ bộ thượng thư Đàm
Thận Huy hiệu đính miếu húy và
ngự danh. Miếu húy gồm 20 chữ,
ngự danh là hai chữ Ỷ và Huệ.
Những chữ húy khi làm văn hay khắc in
sách đều không cấm, nhưng khi đọc
phải tránh.
Dưới thời Nam Bắc phân tranh, sử
cũ không thấy nói chúa Trịnh, chúa
Nguyễn buộc dân chúng phải kiêng húy tên
nào. Nhưng ngoài dân gian, tại miền
Bắc, v́ kỵ húy tên Tây Vương
của Trịnh Tạc mà huyện Tây Châu
đổi là huyện Nam Châu. Tại miền
Nam, v́ tránh tên Vũ Vương của chúa
Nguyễn Phúc Khoát mà người miền Nam
đọc vũ thành vơ, tránh tên chúa
Nguyễn Phúc Chu nên đọc chu thành châu,
phúc thành phước.
e. Triều đại nhà Nguyễn
(1802-1945): Nhà Nguyễn cũng như các
triều đại trước, luật
kỵ húy được mở rộng và áp
dụng một cách nghiêm nhặt, bắt dân
gian phải tránh tên các vua đang trị v́,
các vua tiền nhiệm, và các bà vợ vua.
Ngoài ra, nhà Nguyễn c̣n bắt các thí sinh không
được dùng tên các cung điện, lăng
tẩm nhà vua. Ví dụ để tránh
chữ Long trong niên hiệu Gia Long và Mạng
trong niên hiệu Minh Mạng mà người
miền Huế phải đọc long thành luông,
mạng thành mệnh. Vừa lên ngôi
được một năm, năm 1803, vua
Gia Long liền cho khôi phục chế độ
kiêng húy. Sách Đại Nam Thực Lục
của triều Nguyễn ghi lại sắc
lệnh này như sau: Sắc bộ Lễ kính
gửi chữ húy cho khắp trong ngoài, phàm tên
người, tên đất, giống chữ
th́ đổi đi, làm văn th́ tùy theo ư
nghĩa mà thay chữ khác.
Đời Gia Long quy định các chữ sau
đây thuộc loại trọng húy:
Chủng, Noăn, Ánh, Luận, Hoàn, Lan. Khi đọc
phải tránh âm, khi viết phải dùng
chữ khác. Riêng các chữ Khang, Khoát,
Thuần thuộc loại khinh húy khi đọc
phải tránh âm, khi viết thêm bộ xuyên trên
đầu. Bộ xuyên trên đầu các
chữ kỵ húy thường được
các sử gia ngày nay gọi là dấu nháy.
Ngoài ra, ngay khi lên ngôi, năm 1804, vua Gia Long
cho xây Triệu Miếu ở kinh đô
Huế để thờ vị tổ khai sáng
là Nguyễn Kim và Thái Miếu để
thờ các chúa Nguyễn được truy tôn
lên chức vị Hoàng Đế. Đến
đời Minh Mạng, năm 1821, ông vua này
lại cho xây Hưng Miếu để
thờ thân phụ vua Gia Long, tức Nguyễn
Phúc Luân và bà vợ, đồng thời cũng
cho xây Thế Miếu để thờ Vua Gia
Long. Việc xây bốn miếu thờ nói lên
việc nhà Nguyễn coi trọng phép kỵ húy.
Qua các đời vua, phép húy ngày càng
được bổ sung và đến
thời Tự Đức (1848-1883), phép húy
được coi là chặt chẽ nhất.
Bằng chứng là người trong tôn
phả phải tránh cả đến
những tên cháu chắt hoàng tử, hoàng tôn,
hoàng muội. Sách Khâm Định Đại Nam
Hội Điển Sự Lệ ghi lại
khoản luật này như sau:
“Phàm người trong tôn phả mà có tên
đồng âm với quốc húy và người
phụ nữ trong Tôn thất trùng tên với
nhau, đều phải chọn chữ đổi
lại. Đến như vợ lẽ các
phủ và vợ cùng con gái là người Tôn
thất, nếu đồng âm với quốc
húy cũng như con gái họ Tôn thất cùng
hoàng tử hoàng tôn, hoàng nữ, hoàng
muội mà tên trùng nhau th́ cũng đều
tiến hành tŕnh lên phủ để đổi
lại và ghi vào tôn phả.
|
Phương Pháp Tránh
Phạm Húy Tại Việt Nam:
Khi ra lệnh kỵ húy, các triều đại
xưa đều không quy định rơ
phải tránh các chữ đó thế nào,
chỉ đưa ra một lệnh rất
tổng quát. Do vậy, các sử gia triều
đ́nh Việt Nam thường phải tham
chiếu quy cách của Tàu để đề
ra phương pháp tránh phạm húy. Sau đây
là các phương pháp thường được
áp dụng:
a. Phương pháp cải tự: Ở
Trung Quốc cũng như Việt Nam, gặp
chữ trọng húy, người ta phải dùng
một chữ khác đồng nghĩa, hay có
ư nghĩa liên hệ. Ví dụ đời Lê
Thánh Tông, khi soạn bộ Quốc Triều H́nh
Luật, gặp chữ Lị là tên húy
của vua Lê Lợi, các nhà làm luật dùng
chữ Tiện. Tiện và Lị có ư nghĩa
tương tự.
Đời vua Gia Long, 6 tên sau đây thuộc
loại trọng húy, lúc đọc phải tránh
âm, lúc viết phải dùng chữ khác.
Kỵ Húy/ Nghĩa /Đổi ra/ Nghĩa
Noăn/ Ấm/ Úc/ Ấm
Ánh/ Sáng Chiếu/ Sáng
Chủng/ Trong/ Thức/ Trong
Cổn/ Tia nắng/ Diệu/ Ánh sáng
Hoàng/ Ṿng tṛn/ Viên/ Ṿng tṛn
Lan/ Hoa lan/ Hương/ Hương thơm
b. Phương pháp chiết tự: Trường
hợp buộc phải viết tên thuộc
loại trọng húy, các sử gia Việt Nam
áp dụng phương pháp chiết tự,
tức phương pháp tách chữ đó ra làm
hai, ba phần. Khi đọc, phải ghép các
phần đó lại để hiểu ư nghĩa.
Ta có thể nêu các ví dụ sau:
Trong bài văn bia Vĩnh Lăng nói về Lê
Thái Tổ, ta thấy chép như sau:
Tánh Lê, húy tả ṭng Ḥa, hữu ṭng Đao
( chữ Lị).
Tằng tổ húy tả ṭng Ngôn, hữu ṭng
Mỗi ( chữ Hối).
Hoàng tổ húy tả ṭng Thủy, hữu ṭng
Đinh (chữ Đinh).
Sử gia triều Nguyễn, cụ Tổng Tài
Cao Xuân Dục, khi biên tập Quốc
Triều Chánh Biên Toát Yếu, đă viết
các tên húy của vua Gia Long như sau:
-Bên tả chữ Nhật, bên hữu chữ
Viện (chữ Noăn).
-Bên tả chữ Nhật, bên hữu chữ
Anh (chữ Ánh.)
-Bên tả chữ Thái, bên hữu chữ
Trọng ( chữ Chủng).
-Về chữ Hồng, trong tên Hồng
Nhậm là tên húy của vua Tự Đức,
cũng áp dụng lối chiết tự:
Tả tùng Thủy, trung tùng Công, hữu tùng
Điểu (chữ Hồng).
c. Phương pháp khuyết tự: Trường
hợp gặp chữ trọng húy mà không tránh
được, th́ luật thời Thiệu
Trị (Tr.v.1841-1847) cho áp dụng phương
pháp khuyết tự là phương pháp
bỏ trống, không viết tên kỵ húy. Ví
dụ các sử gia viết bộ Đại Nam
Thực Lục đă ghi như sau: “Tên húy là
…., lại húy là …(Phúc Chú). Phương pháp
này đă có ở Trung Quốc và luật
đời Thiệu Trị dự liệu như
sau:
Những chữ kỵ húy mà không thể
sửa đổi hay dùng chữ khác
được, th́ khi viết tới chữ
đó, phải lấy giấy vàng bít
lại. Ngày xưa, trong dân gian, người
ta cũng có tục lệ này. Tên người
chết được viết trên tấm
minh tinh nhưng lấy giấy vàng bịt
lại để giữ phép kỵ húy.
d. Phương pháp khuyết bút: Sử
gia xưa hay dùng phương pháp khuyết bút
để viết các chữ thuộc loại
khinh húy. Cách viết của phương pháp
này là bớt đi một nét chữ.
Hoặc thay đổi vị trí các thành
phần của chữ. Phương pháp
khuyết bút đă được áp dụng
từ đời Lư, Trần. Vua Trần Anh Tông
(1293-1314) ra lệnh khi viết các chữ
Ngụy, Thấp, Nam, Cán, Tộ, Tuấn, Anh,
Tảng đều phải bớt nét.
Luật pháp đời Nguyễn quy định
khi viết tên đất mà gặp phải
những chữ húy của vua, th́ hoặc
viết theo tên ngày nay, hoặc viết
thiếu một nét.
e. Phương pháp cải âm là phương
pháp đọc trại tên húy. Nguyên
tắc đọc trại tuân theo đúng nguyên
tắc Ngữ học là biến đổi âm
vận cuối. Sau đây là các ví dụ:
Tên Húy/ Đọc Trại/ Nguyên Nhân
Lị/ Lợi/ Tên húy Lê Thái Tổ.
Nguyên/ Ngươn/ Tên húy Nguyễn Phúc Nguyên.
Câm/ Kim/ Tên húy của Nguyễn Câm (Kim).
Ánh/ Yếng/ Tên húy vua Gia Long.
Cảnh/ Kiểng/ Đông Cung Cảnh
Đảm/ Đởm/ Tên húy vua Minh Mạng.
Hồng/ Hường/ Tên húy vua Tự Đức
Nhậm/ Nhiệm/ Tên húy vua Tự Đức.
f. Phương pháp dùng tên họ hay
tiếng Ông/Bà: Để tránh kỵ húy và
để tỏ ḷng tôn kính các thần thánh
hay anh hùng dân tộc, người Việt dùng
tên họ hay tiếng Ông/Bà để thay tên
chính. Ví dụ, đức thánh Trần
tức Hưng Đạo Đại Vương
Trần Quốc Tuấn; hai bà Trưng tức
bà Trưng Trắc và Trưng Nhị. Lăng
Ông tức lăng Tả Quân Lê Văn
Duyệt; miễu Bà tức miễu Bà Chúa
Xứ Núi Sam, Châu Đốc.
Báo chí Việt Nam ngày nay có lối viết dùng
tên họ để chỉ một người
như Thủ Tướng họ Chu tức ông
Chu Dung Cơ, Thủ Tướng họ Phan
tức ông Phan Văn Khải. Lối viết
này không xuất phát từ kỵ húy mà
bắt chước tập tục tây phương,
gọi một người nào đó bằng
tên họ. Ví dụ Tổng Thống Reagan,
Tổng Thống Clinton v.v...
3. Các Biện Pháp Chế Tài: Dưới
hai triều Lư, Trần sử cũ không cho
biết người phạm húy bị chế
tài như thế nào. Nhưng đến
triều đại hậu Lê, biện pháp
xử lư người phạm húy được
quy định rơ ràng.
a. Triều đại hậu Lê: Theo
điều 125 trong Quốc Triều H́nh
Luật th́: Dâng thư hay tâu việc ǵ mà
lại lầm phạm đến tên vua hay tên
húy các vua trước, th́ xử phạt 60 trượng,
biếm 2 tư; miệng nói hay văn thư
khác lầm mà phạm phải th́ xử
phạt 80 trượng. Viết những
chữ húy phải bớt nét, mà không bớt
nét th́ xử phạt 60 trượng.
Miệng nói phạm tên húy thi xử tôi xuy.
Người nào cố ư đặt tên chính
hay tên tự phạm vào chữ húy th́ xử
tôi lưu, tội tử h́nh
Cũng theo bộ luật này, trường
hợp buột miệng nói hay lầm lỡ
viết tên kỵ húy trong văn thơ khác th́
bị phạt 80 gậy. Trường hợp
viết một chữ đáng lẽ phải
bớt một nét mà không bớt th́ bị
phạt 60 gậy và người lỡ
miệng nói những chữ này bị
phạt bằng roi hay tiền. Đối
với những kẻ cố t́nh phạm húy
bằng cách lấy tên húy mà đặt cho ḿnh,
hay dùng làm tên tự, th́ bị xử tội
lưu là bị đày đi ở một nơi
xa sinh quán.
b. Triều đại nhà Nguyễn:
Biện pháp chế tài đối với
những người phạm húy được
quy định trong điều khoản 62
của bộ luật Gia Long:
Kẻ nào trong một bài viết tấu hay
tŕnh ǵ với vua mà dùng một tiếng trùng
với tên vua hay tên một hoàng khảo
sẽ bị phạt 80 gậy. Nếu tội
phạm húy ấy mắc phải trong các
giấy tờ khác th́ h́nh phạt sẽ là
40 gậy. Kẻ nào phạm tội ấy mà
lại dùng tên ấy làm tên chính sẽ
bị phạt 100 gậy.
Về tên lăng tẩm cung điện,
luật nhà Nguyễn cũng buộc người
ta kiêng cữ nhưng không thấy quy định
sẽ trừng phạt thế nào. Theo ông Ngô
Tất Tố trong tiểu thuyết Lều Chơng,
thí sinh phạm tội này chỉ bị đánh
rớt mà thôi. Quốc húy đă chấm
dứt khi thể chế chính trị thay đổi
từ quân chủ sang dân chủ vào năm
1945. Tuy nhiên, tục lệ này vẫn để
lại ảnh hưởng sâu xa trong xă
hội ngày nay.
4. Ảnh Hưởng Của Phép Kỵ Húy
Đối Với Xă Hội Việt Nam: Phép
kỵ húy đă ảnh hưởng đến
tên người, địa danh, và ngôn
ngữ văn tự.
a. Ảnh hưởng đến tên người:
Tục lệ kỵ húy đă ảnh hưởng
đến tên họ và tên chính của người
Việt Nam.
- Ảnh hưởng đến tên họ:
Theo Đại Việt Sử Kư Toàn Thư: Năm
Nhâm Th́n 1232, vua Trần Thái Tông ra lệnh: V́
nguyên tổ tên húy là Lư mới đổi
triều Lư làm triều Nguyễn. Vả
lại cũng để dứt bỏ ḷng
mong nhớ của dân chúng đối với
nhà Lư. Sử gia Lê Tắc c̣n thêm rằng, tông
thất và người dân họ Lư cũng
bị buộc đổi sang họ Nguyễn.
Ông viết: Lên ngôi được một
năm, năm Canh Dần (1230), Chiêu Thánh trao
quốc chính cho chồng là Trần Nhật
Cảnh. Tất cả tôn thất nhà Lư và b́nh
dân họ Lư đều khiến đổi
sang họ Nguyễn để dứt ḷng dân
mong nhớ.
Sắc lệnh trên của nhà Trần
chắc hẳn đă được nghiêm
chỉnh thi hành nên xă hội Việt Nam ít
thấy người họ Lư. Và ngày nay,
thấy ai có họ Lư, người ta thường
bảo đó là họ của người Tàu.
Sang đời hậu Lê (1428-1788), vua Lê Thái Tông
ra lệnh dân chúng phải đổi họ
Trần ra họ Tŕnh. Sắc lệnh
viết: Ai có họ tên trùng với các
chữ húy th́ phải đổi, như tên húy
của Cung Từ quốc thái mẫu là
Trần nên cho họ Trần đổi thành
họ Tŕnh. Lệnh trên đây của vua Lê
Thái Tông không được nghiêm chỉnh
thi hành nên ngày nay, vẫn thấy người
họ Trần đông hơn họ Tŕnh.
Một ví dụ khác nữa là trường
hợp Giáo sư Cung Giũ Nguyên, theo tiểu
sử của ông đăng trên mạng lưới
điện toán, th́ tổ tiên ông là người
Minh Hương có họ Hồng. V́ tránh tên
húy của vua Tự Đức là Hồng
Nhậm, nên ông đă đổi từ
họ Hồng sang họ Cung.
- Ảnh hưởng đến tên chính:
Đại Việt Sử Kư Toàn Thư cho
biết, v́ kỵ húy mà tên một người
phải đổi sang h́nh thức khác. Ta trưng
các bằng chứng:
Năm Hồng Thuận thứ 2 (1510), vua Lê Tương
Dực (1509-1516) xưng là Nhân Hải Động
Chủ. Ngày 27 lấy Đông Các học sĩ
Đỗ Nhân (1472-1517) làm Hộ bộ
tả thị lang, đổi tên Nhân thành
Nhạc để tránh tên hiệu của vua
là Nhân Hải.
Nhà sử học Phan Huy Chú trước tên là
Hạo, v́ tránh quốc húy nên đổi tên
thành Chú.
Đến triều Nguyễn, Đại Nam
Liệt Truyện ghi rằng: Trần Tiễn
Thành khi trước tên là Dưỡng Độn,
tự là Thời Mẫn, hiệu Tốn Trai,
sau tránh quốc húy đổi tên là Mẫn
rồi được vua cho tên như ngày
nay.
V́ tránh chữ Tông trong tên vua Thiệu
Trị là Miên Tông mà ông Hà Tông Quyền,
đổi thành Hà Quyền. V́ tránh tên chúa
Nguyễn Phúc Chu mà tên Ngô Tùng Chu bị đọc
trại là Ngô Ṭng Châu.
Người Công Giáo Việt Nam hiện nay
vẫn giữ tục lệ kiêng húy. Bằng
chứng là một ḍng tu rất nổi
tiếng có tên là Ḍng Chúa Giêsu, nhưng v́ kiêng
húy tên Giêsu nên người Công Giáo gọi ḍng
này là Ḍng Tên.
b. Ảnh hưởng đến địa
danh: Địa danh Việt cũng như Tàu
giống với ngôn ngữ tên người nên
tục kỵ húy cũng ảnh hưởng
tới địa danh. Thời Lư Trần, ta
chưa biết có địa danh nào phải
đổi tên v́ phép húy hay không, nhưng
đến thời Mặc Đăng Dung (Tr.v.
1527-1529), người ta thấy địa danh
bị thay đổi v́ kỵ húy. Đại
Việt sử kư Tiền Biên ghi như sau:
Vua Lư Thái Tông (1028-1054) đem quân đi đánh
Chiêm Thành, đến cửa biển Tư Khách
(c̣n gọi là Ô Long thuộc huyện Hương
Trà, Thuận Hóa) đổi tên là Tư Dung.
Sau Mặc Đăng Dung cướp ngôi, v́
chữ Dung đồng thanh với tên ḿnh nên
đổi lại là Tư Khách.
Theo học giả Đào Duy Anh, đời vua
Lê Trang Tông (Tr.v.1533-1548), v́ tên húy là Ninh mà
một số địa danh có chữ ninh
phải đổi ra:
-Phủ Tĩnh Ninh đổi thành Tĩnh
Giang, nay là Tĩnh Gia, Thanh Hóa.
-Huyện Phù Ninh đổi thành Phù Khang, Phú
Thọ.
Khi Mạc Phúc Nguyên lên ngôi năm 1546,
một số địa danh có chữ Nguyên
phải đổi tên:
-Châu Thất Nguyên đổi thành Thất
Tuyền, Lạng Sơn.
-Huyện B́nh Nguyên đổi thành B́nh
Tuyền, Vĩnh Phú.
Đời vua Lê Anh Tông (Tr. v. 1557-1573), v́ tên
húy là Bang nên trấn Yên Bang đổi thành
Yên Quảng, nay là Quảng Yên.
Đời chúa Trịnh Tạc (Tr.v. 1657-1682),
v́ kiêng húy tước Tây Vương nên
huyện Tây Chân đổi thành Nam Chân, nay là
Nam Trực, Nam Định.
Đời Tây Sơn, vua Quang Trung (Tr.v. 1788-1792) có
tên húy là Quang B́nh nên phủ Thái B́nh đổi
thành Thái Ninh, đời Nguyễn đổi
lại là Thái B́nh. Huyện Quảng B́nh
tỉnh Thanh Hóa đổi thành Quảng
Bằng, đời Gia Long đổi lại
Quảng B́nh, đời Minh Mạng đổi
thành Quảng Địa.
Đời Nguyễn, sách Khâm Định Đại
Nam Hội Điển Sự Lệ cho biết tên
đất, tên người không được
dùng các chữ trọng húy. Khi đọc
phải tránh âm, khi viết phải dùng
chữ khác. Ví dụ vợ của vua Minh
Mạng (1820-1840) là Hồ Thị Hoa nên địa
danh có tên Hoa phải đổi thành:
-Tỉnh Thanh Hoa đổi thành Thanh Hóa.
-Phủ Thăng Hoa ở Quảng Nam đổi
thành Thăng B́nh.
-Năm 1831, v́ cữ tên lăng của hoàng
hậu Hiếu Minh, vợ của chúa
Nguyễn Phúc Chu, là Vĩnh Thanh Lăng nên Vĩnh
Thanh Trấn đổi thành Vĩnh Long
Trấn, để qua năm 1832, thành Vĩnh
Long.
Vua Đồng Khánh (Tr.v.1886-1888) tên húy là Chân
nên huyện Chân Định đổi thành
Trực Định. Ngoài ra, vua c̣n tên khác là
Đường nên hai huyện Nam Đường
và Nghĩa Đường tỉnh Nghệ An
đổi thành Nam Đàn và Nghĩa Đàn.
c. Ảnh hưởng đến ngôn
ngữ văn tự: V́ phép kỵ húy mà
ngôn ngữ Việt Nam đă bị đọc
trại, và nếu từ ngữ nào bị
đọc trại lâu ngày, dân gian sẽ quên
tiếng chánh, chỉ nhớ tiếng
trại. Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, ba
từ ngữ mà dân gian Việt Nam đă quên
tiếng chánh là: Lị, Câm, và Tông.Về
tiếng Lị, Giáo sư viết : Lị
vốn tên vua Lê Thái Tổ và phải húy
trong suốt đời Hậu Lê (1428-1788). V́
cữ tên nhà vua này, người ta đă nói
trại lị thành lợi trong mấy trăm
năm, và hiện nay, chúng ta đă quen dùng
tiếng lợi như trong các từ ngữ
lợi nhuận lợi tức, danh lợi,
quyền lợi,…mà quên hẳn tiếng chánh
là Lị.
Về tiếng Câm, cũng giống trường
hợp chữ Lị. Giáo sư cho rằng,
vị thủy tổ nhà Nguyễn ở Nam Hà
có tên chánh là Nguyễn Câm, v́ kỵ húy nên
đọc trại là Kim. Từ ngữ Kim
đă quá thông dụng như kim hoàn, kim
ngạch, kim thời mà quên hẳn tiếng chánh
là Câm.
Về tiếng Tông, v́ kỵ húy tên vua Minh
Mạng là Miên Tông mà người ta phải
đọc trại chữ Tông thành Tôn. Ngày
nay, một số sử sách đă bắt
đầu dùng lại chữ tông như Lê Thái
Tông, Đức Giáo Tông. Tuy nhiên, các chữ
như tôn giáo, tôn thất vẫn c̣n
được dùng và dân gian coi đó là
chữ đúng, không cần sửa lại
nữa. Ngoài ba tiếng trên đây, nhiều
từ ngữ Việt Nam bị đọc
trại v́ kỵ húy:
Tên/ Đọc Trại/ Lư Do Kỵ Húy
Ánh/ Yếng/ Húy vua Gia Long: Nguyễn Ánh.
Bửu/ Bảo/ Húy vua Thành Thái là Bửu Lân.
Cảnh/ Kiểng/ Đông Cung Cảnh.
Chu/ Châu/ Nguyễn Phúc Chu.
Dung Dong/ Húy vua Thiệu Trị là Miên Dung.
Duyệt/ Dượt Tả Quân Lê Văn
Duyệt
Đảm/ Đởm/ Tên húy vua Minh Mạng.
Hoạt/ Hượt/ Nguyễn Phúc Hoạt
(Khoát).
Hoàng/ Huỳnh/ Chúa Nguyễn Hoàng
Hoa / Bông/ Vợ vua Minh Mạng Hồ Thị
Hoa.
Hồng/ Hường/ Húy vua Tự Đức
là Hồng Nhậm.
Nghĩa/ Ngăi/ Chúa Nghĩa.
Nguyên/ Ngươn/ Chúa Nguyễn Phúc Nguyên
Nhậm/ Nhiệm/ Húy vua Tự Đức
Hồng Nhậm.
Nhân/ Nhơn/ Danh tướng Đỗ Thành
Nhân.
Phúc/ Phước/ Ḍng họ Nguyễn Phúc.
Thái/ Thới/ Nguyễn Phúc Thái (Chúa Nghĩa).
Tính/ Tánh/ Tướng Vũ Tính.
Tùng/ Ṭng/ Chúa Trịnh Tùng.
Vũ/ Vơ/ Vơ Vương Nguyễn Phúc Khoát.
Tôn kính bậc trưởng thượng là
điều cần thiết, nhưng chỉ v́
sự sùng bái cá nhân một ông vua trong
chế độ quân chủ, mà ngôn ngữ văn
tự của cả dân tộc bị biến
đổi một cách vô lư th́ điều
đó không thể chấp nhận được.
Và đó là hậu quả tiêu biểu
của bất cứ chế độ độc
tài nào. Phép kỵ húy cũng ảnh hưởng
đến kiểu cách xưng hô tên người
Việt Nam, sẽ được tŕnh bày
trong chương sáu.
|
Nguyễn Long Thao |
|
|