|
CHƯƠNG SÁU: CÁCH XƯNG
HÔ TÊN NGƯỜI
Mục đích của chương này là nghiên
cứu những nguyên tắc xưng hô tên người
Việt Nam và người tây phương
để t́m ra những điểm tương
đồng và dị biệt. Do vậy,
nội dung sẽ gồm bốn mục:
mục một nói về các nguyên tắc xưng
hô của người Việt, mục hai nói
về biệt hiệu, một loại tên
được đặt ra chỉ dùng khi xưng
hô, mục ba nói về cách xưng hô của
người Hoa Kỳ và một số
quốc gia tây phương, mục bốn so sánh
cách xưng hô của người Việt Nam
và tây phương.
MỤC I: CÁCH XƯNG HÔ TÊN NGƯỜI
VIỆT NAM
Trong mục này ta sẽ t́m hiểu các
tục lệ xưng hô tên người
Việt Nam và cách phối hợp giữa tên
chức vụ, tên nghề nghiệp và tên người.
TIẾT A: TỤC LỆ XƯNG HÔ TÊN NGƯỜI
VIỆT NAM
Ở đây chúng tôi không nghiên cứu cách xưng
hô các danh từ thân tộc như anh,
chị, em, chú, bác, ông, bà v́ đó thuộc
lănh vực ngữ học và thân tộc
học. Nhiệm vụ của tính danh học
là: (a) t́m hiểu những tục lệ khi xưng
hô tên, (b) cách phối hợp giữa tên người
với tên chức vụ và nghề
nghiệp. Người Việt Nam đă áp
dụng những tục lệ sau đây khi xưng
hô tên.
1. Tục Lệ Dùng Tên Đơn: Người
Việt có sự mâu thuẫn rơ ràng trong
việc thích đặt tên kép, nhưng
lại gọi nhau bằng tên đơn. Thí
dụ gia đ́nh có anh Nguyễn Hưng
Thịnh, Nguyễn Hưng Phú và Nguyễn
Thị Thu Thảo. Ba người ấy có tên
kép nhưng gia đ́nh chỉ gọi anh
Thịnh, anh Phú, chị Thảo. Sự mâu
thuẫn này đă làm nhà văn Nguyễn Tuân
khó chịu, khi ông viết: Các con gọi tên
con cái nên gọi cho đúng. Tên cháu là
Tố Tâm th́ phải gọi đúng như
thế. Sao lại ăn bớt đi một
chữ? Không thể bảo như thế là
tiện, là dễ gọi được. Con nên
bảo vợ con, không người ngoài người
ta cười đến ông con ḿnh, đến
cả nhà ḿnh.
Ngày nay, người ta đă có thói quen
gọi một người bằng tên kép, nhưng
mới chỉ áp dụng cho nữ giới, như
gọi cô Thu Hà, cô Ngọc Dung. Trái lại,
người ta c̣n ngượng ngùng khi
phải gọi anh Hùng Dũng, anh B́nh Định,
ông Trung Nghĩa.
2. Tục Lệ Dùng Tên Họ: Thông thường,
người Việt dùng tên chính hoặc toàn
bộ tên để xưng hô, nhưng đôi
khi chỉ dùng tên họ. Tập tục này thường
thấy giới trí thức áp dụng. Các nhà
nho xưa bắt chước giới trí
thức Tàu, gọi nhau bằng tên họ
để biểu lộ ḷng tôn kính, qua các
kiểu xưng hô như: Trần đại
nhân, Lê tiên sinh, Ngô nhân huynh, Đỗ quư
hữu, Vũ tôn ông, Lê quư công. Học
giả Phạm Quỳnh đă dùng nhóm từ
Trần đại nhân để gọi
sử giả Trần Trọng Kim.
Ngoài ra, khi so sánh hai nhân vật Việt và
Tầu, sử gia, thi sĩ Việt Nam ngày xưa
thường chỉ nhắc đến tên
họ của nhân vật Tầu, buộc người
đọc phải biết đó là ai.
Lối so sánh này phổ thông trong giới trí
thức xưa nhằm chứng tỏ khả
năng uyên bác qua việc thông thuộc điển
cố, kinh sử Tàu. Ta có thể trích
dẫn lời của vua Lê Thánh Tông nói
về công thần Nguyễn Xí để
chứng minh cho nhận xét này:
Ngày xưa trẫm làm phiên vương,
nhởn nhơ chốn cửa son, không có ư lên
ngôi báu. V́ bọn khanh đồng ḷng suy tôn,
diệt bọn phản nghịch, đưa
trẫm lên ngôi báu đến nay đă năm
năm. Thú vui con hát, vũ nữ th́ khanh không
bằng họ Thạch họ Cao nhà Tống.
Mà lo lắng đến héo ruột khô tim th́
khanh hơn hẳn họ Pḥng họ Đỗ
đời Đường.
Trong thi ca cổ điển, các thi sĩ cũng
dùng tên họ để gọi nhân vật Tàu.
Xin trưng ví dụ trong bài Côn Sơn Ca
của chiến lược gia Nguyễn Trăi
(1380-1442):
Cơm rau nước lă an thân
Muôn chung ngh́n tứ có cần quyền chi
Sao không xem: gian tà những kẻ xưa kia.
Trước th́ họ Đổng , sau th́
họ Nguyên
Đổng th́ mấy vực kim tiền
Nguyên hồ tiêu mấy chứa mấy
ngh́n muôn cân.
Ngày nay, các người Việt Nam làm
truyền thông cũng bắt chước tây
phương gọi các nhà lănh đạo
quốc gia bằng tên họ. Ví dụ
Chủ tịch họ Giang, tức ông Giang
Trạch Dân. Thủ tướng họ Chu,
tức ông Chu Dung Cơ. Chủ Tịch họ
Hồ tức ông Hồ Chí Minh.
3. Tục Lệ Dùng Tên Hiệu:
Nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng
trong xă hội được dân chúng gọi
bằng tên hiệu. Các sinh viên đại
học Văn Khoa Sàig̣n thường gọi
giáo sư Thanh Lăng, mà không gọi linh mục
Đinh Xuân Nguyên. C̣n nói tới tiểu
thuyết miền Nam, người ta thường
nhắc tới tác giả Hồ Biểu Chánh,
mà không nhắc tới Hồ Văn Trung là tên
thật của ông. Tác giả sách Nguồn
Gốc Mă Lai Của Dân Tộc Việt Nam là
B́nh Nguyên Lộc, măi đến khi ông
mất vào năm 1993, dân chúng mới biết
tên ông là Tô Văn Tuấn. Quần chúng quá
quen thuộc với các tên như Khái Hưng,
Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly nhưng mấy ai
biết tên thật những vị này là ǵ?
Đối với các người trong ngành thương
mại, người ta cũng dùng thương
hiệu để gọi thay tên chính. Ví
dụ ông bà Nghĩa Lợi.
4. Tục Lệ Dùng Tên Tước: Người
Việt rất trọng chức tước nên
ngày xưa có tục mua tước vị
triều đ́nh. Khi một người có tước
vị, dân làng sẽ gọi tên người
ấy kèm theo tên tước. Ví dụ
Trần Quốc Tuấn có tước Hưng
Đạo Vương nên dân chúng gọi là
Trần Hưng Đạo. Cụ Nguyễn
Bỉnh Khiêm đỗ Trạng Nguyên và có tước
Tŕnh Quốc Công nên được gọi là
Trạng Tŕnh. Tại làng chúng tôi, vào
những năm 1930, 1940, có nhiều cụ
bỏ ra một số tiền mua tước
hàng cửu phẩm là tước vị
thấp nhất của triều đ́nh nhà
Nguyễn. Dân làng Phát Diệm ngày nay vẫn
c̣n nhắc nhở đến các cụ
Cửu Diễm, Cửu Tầm, Cửu Uy,
Cửu Quắc. Người Việt có tâm lư
trọng tước vị v́ trong sinh hoạt
làng xă, người có tước vị
được ngồi ở vị trí cao,
được có tiếng nói khi hội
họp, và được miễn sưu
dịch.
5. Tục Lệ Dùng Tên Tự: Để
kính trọng cũng như kiêng húy tên chính
của các bậc thánh hiền, Người
Việt cũng như người Trung
Quốc có tục lệ dùng tên tự để
gọi. Ta thường gọi thầy Mẫn
Tử Khiên, thầy Tử Cống. Thầy
Mẫn Tử Khiên có tên chính là Mẫn
Tổn, tên tự là Tử Khiên. Thầy
Tử Cống có tên chính là Đoàn Mộc
Tứ, tên tự là Tử Cống.
6. Tục Lệ Dùng Số Thứ Tự: Trong
các gia đ́nh miền Nam Việt Nam, cha
mẹ, anh em không gọi nhau bằng tên chính
mà bằng con số thứ tự: Hai, Ba, Tư,
Năm, Sáu. Điều đáng chú ư là không
dùng chữ Cả, Nhất, Một. Tránh
chữ Cả v́ kỵ húy chức Hương
Cả là chức cao nhất trong làng xă
miền Nam khi xưa. Tránh chữ Một,
Nhất v́ hai từ này gợi lên ư nghĩa
một con. Điều này trái với ước
vọng của các gia đ́nh xưa là
muốn có con đàn cháu đống. Như
vậy, tiếng Hai chỉ người con
thứ nhất, tiếng Ba chỉ người
con thứ hai, và tiếng Út để chỉ
người con cuối cùng.
7. Tục Lệ Dùng Tiếng Mơ Hồ:
Ta phân biệt hai trường hợp: (a) dùng
tiếng mơ hồ trong gia đ́nh, (b) dùng
tiếng mơ hồ ngoài xă hội.
a. Trong gia đ́nh: Ngày xưa, khi nền
luân lư Khổng Mạnh c̣n nhiều ảnh hưởng,
khi quan niệm về t́nh yêu nam nữ c̣n
khắt khe, th́ ngay cả vợ chồng cũng
phải kín đáo trong vấn đề xưng
hô. Họ không được dùng tên và
những từ ngữ thân mật như anh,
em. Gọi vậy, hàng xóm cho là suồng să,
không đứng đắn. Có chăng vợ
chồng chỉ được nghe các
tiếng rất mơ hồ như ḿnh, đàng
ấy, thầy mày, mẹ nó v.v… Điều
lư thú là lời đối thoại sau đây,
ai nghe cũng hiểu là vợ chồng
gọi nhau: Ḿnh ơi! Về ăn cơm. Ḿnh
ăn trước đi, đây đang
giở tay một tí. Ngày nay, cách xưng hô này
vẫn c̣n thấy trong các gia đ́nh ở nông
thôn, nơi ảnh hưởng văn minh tây
phương chưa sâu đậm lắm,
hoặc trong các gia đ́nh c̣n thấm
nhuần tinh thần lễ giáo Khổng
Mạnh.
b. Ngoài xă hội: Trong một tập
thể, nếu cần trưng ra một tên nào
đó để làm thí dụ, người nói
sợ trùng với tên người đang
hiện diện, nên đặt một tên mơ
hồ. Thời xưa tiếng thường dùng
là Mỗ. Mỗ là tiếng Hán Việt, là
đại danh từ, có nghĩa là không
chỉ cái ǵ. Sau này, thay v́ tên mỗ, người
ta đặt các tên Mít, Xoài, Ổi, Cột,
Kèo và gần đây dùng các mẫu tự A,
B, C. Như chúng tôi đă nói, bất cứ
tiếng nào cũng có thể là tên người
Việt Nam, tuy nhiên, những tiếng trên
đây mặc nhiên không ám chỉ ai.
8. Tục Lệ Kỵ Húy: Ta phân
biệt trường hợp kỵ húy trong gia
đ́nh và ngoài xă hội.
a. Trong gia đ́nh: Con cái, cháu chắt
sẽ phạm tội bất kính, nếu
cứ lấy tên ông bà, cha mẹ hay các
bậc trưởng thượng ra mà nói,
nhất là các vị ấy đang hiện
diện ở đó. Trong dân gian, nếu tên
con rể trùng với tên ông bà cha mẹ
vợ th́ khi xưng hô, tên con rể phải
đổi sang h́nh thức khác, nhưng trong
giấy tờ vẫn giữ nguyên như cũ.
Gặp trường hợp không tránh
được tên húy, người ta lấy
chữ đồng nghĩa để thay
thế. Ví dụ Hương/Nhang, Hoa/Bông, hay
dùng nguyên tắc nói trại: Long/Luông,
Lị/Lợi, Mạng/Mệnh. Trong làng chúng
tôi, v́ kỵ húy tên bố mẹ là Canh, nên
con cháu không bao giờ nói nấu canh, ăn
canh, mà nói nấu riêu, ăn riêu.
b. Ngoài xă hội: Ngày nay, tục lệ
buộc dân chúng phải kiêng húy không c̣n
nữa, nhưng dưới thời quân
chủ, trong chốn triều đ́nh,
những chữ húy như tên vua, hoàng
hậu, khi xưa viết bằng Hán tự, lúc
đọc phải tránh âm, lúc viết
phải đổi thành chữ khác. Vấn
đề này đă được tŕnh bày
trong chương năm: Tục Lệ Kỵ Húy.
Người ta cũng kỵ húy tên các
thần thánh. Nếu buộc phải nói ra,
họ áp dụng nguyên tắc như sau: Ví
dụ muốn nói tên vị Thành Hoàng Ma La
Cẩn ở đ́nh xă Phú Nhuận, Tỉnh
Gia Định, nay thuộc thành phố Hồ
Chí Minh, trước hết dân làng phải
tỏ vẻ cung kính, sau đó hạ thấp
giọng rồi nói thật nhỏ: Tên ngài
họ Ma, đệm chữ La, húy là Cẩn.
Các tín đồ Phật Giáo Ḥa Hảo cũng
kỵ húy tên Đức Phật Thầy Tây
An, vị sáng lập tông phái Phật Giáo
Bửu Sơn Kỳ Hương. Ngài có tên là
Đoàn Văn Huyên. Các tín đồ nói tên
ngài như sau: Trước hết hạ
thấp giọng, sau đó nói tên ngài là Ngôn
trước, Tuyên sau, ráp lại thành chữ
Huyên trong Hán tự.
9. Áp Dụng Tinh Thần Khiêm Tốn: Tâm
lư người Việt rất khiêm tốn, tránh
nói đến cái tôi. Giới trí thức
chịu ảnh hưởng văn hóa Pháp thường
hay nại câu tục ngữ: Le moi est haissable,
nghĩa là cái tôi là cái đáng ghét để
bào chữa cho việc mỗi khi cần nói
đến cái tôi. Vua mà nói về ḿnh th́ xưng
là cô, quả, quả nhân, bỉ nhân. Kẻ
sĩ nói về vợ ḿnh xưng là tiện
nội, nói về nhà ḿnh xưng là tệ xá,
c̣n nói về chính ḿnh th́ xưng là tiểu
sinh, hậu sinh, kẻ hèn. Nhà sư nói
về ḿnh xưng là bần tăng. Ngày nay,
giới trí thức Việt Nam hay dùng chữ
“chúng tôi” để biểu lộ tinh
thần khiêm tốn. Tâm lư khiêm tốn trong cách
xưng hô của người Việt có
lẽ bắt nguồn từ lối xử
sự của các vua chúa Trung Quốc thời
xưa. Học giả Giản Chi và Nguyễn
Hiến Lê khi viết về lối xử
sự của các nhà lănh đạo thời
Chiến Quốc, đă mượn lời
của Lăo Tử giải thích lối xưng
hô này:
Lăo Tử nói tuy sang mà phải lấy hèn làm
gốc. Tuy cao mà phải lấy thấp làm
nền, v́ vậy bậc vương hầu mà
tự xưng là Cô, Quả, Bất Cốc là
lấy sự ti tiện làm gốc đấy.
Kẻ cô, quả là kẻ ti tiện, khốn
khổ, ở địa vị thấp mà
bậc vương hầu tự xưng như
vậy há chẳng phải tự hạ ḿnh mà
tôn quư kẻ sĩ đấy ư.
Ngày nay, các văn thi sĩ, các xướng ngôn
viên lớn tuổi trong ngành truyền thông
vẫn dùng lối xưng hô “chúng tôi”
để biểu lộ tinh thần khiêm
tốn. Nhưng, giới ca sĩ trẻ không
áp dụng nguyên tắc này, cứ tự nhiên
xưng tên hay tên hiệu của ḿnh với
khán thính giả. Khuynh hướng này
xuất hiện vào khoảng đầu
thập niên 1960 và đang trở thành lối
xưng hô chính thức nơi công cộng.
10. Áp Dụng Nguyên Tắc Thế Xưng:
Trong thân tộc học, nguyên tắc thế xưng
là nguyên tắc dùng danh xưng của thế
hệ này để gọi thế hệ khác.
Ví dụ tiếng cậu để chỉ người
em trai mẹ, nhưng người mẹ cũng
gọi em trai ḿnh là cậu. Gọi thế là
gọi thay cho con. Người Việt Nam không
những áp dụng nguyên tắc thế xưng
trong các danh từ thân tộc, mà c̣n áp
dụng trong việc gọi tên chính. Người
ta áp dụng nguyên tắc thế xưng trong
các trường hợp sau:
a. Dùng tên con trưởng: Dân chúng ngày
xưa sẽ gọi tên một cặp vợ
chồng nào đó bằng tên đứa con
đầu ḷng. Linh mục Léopold Cadière, trong
bài viết về Nguồn Sơn, Quảng
Trị, nêu ra một ví dụ cụ thể :
Cha tên là Nông, có con đầu ḷng đặt
tên là Liệu. Dân làng sẽ gọi là anh
chị Liệu. Người Công Giáo Việt
Nam có bà thánh Đê, nhũ danh Lê Thị Thành.
Bà có chồng tên là Nguyễn Văn Nhất.
Ông bà Nhất sinh được 2 trai 4 gái, và
con đầu ḷng được đặt là
Đê nên dân chúng Phát Diệm, Ninh B́nh
gọi ông bà Đê. Ngày nay, bà Lê Thị Thành
đă là thánh nhân, nhưng người Công
Giáo Việt Nam vẫn gọi bà thánh Đê.
Các đôi vợ chồng lớn tuổi không
dùng tên, hay các từ anh, em để gọi
nhau mà dùng tên con trưởng hay con út. Ví
dụ vợ chồng có con đầu ḷng tên
là Phong, chồng sẽ gọi vợ: “Má
thằng Phong” và vợ sẽ gọi
chồng: “Bố thằng Phong.”Kiểu xưng
hô này được các cụ đánh giá là
đứng đắn.
b. Dùng tên con út: Khi vợ chồng có
một người tạ thế, dân chúng
sẽ lấy tên đứa con út hay đứa
con chưa lập gia đ́nh để gọi
ông hay bà đó.
c. Dùng tên con nuôi: Nếu vợ chồng
không có con, nhận con nuôi, dân chúng sẽ
gọi tên vợ chồng đó bằng tên
con nuôi.
Ba trường hợp trên nói lên ư hướng
dân chúng muốn thừa nhận một đôi
vợ chồng đă có con, có người
nối dơi tông đường.
11. Tục Lệ Đặt Thêm Từ
Ngữ Vào Tên: Nghiên cứu cách xưng hô
của người Việt, ta thấy dân gian
có tục thêm một hay hai từ ngữ vào
sau tên để dễ nhận diện hay
để mô tả hoàn cảnh một người:
a. Đặt thêm từ ngữ để
dễ nhận diện: Trong một cộng
đồng, khi nhiều cá nhân có tên
giống nhau, người ta áp dụng nguyên
tắc thêm từ ngữ để phân
biệt. Tại tây phương, khi hệ
thống tên họ chưa xuất hiện, người
ta thường phân biệt nhau bằng cách thêm
từ ngữ vào sau tên chính. Ví dụ Jones
Smith tức ông Jones thợ rèn. Về sau,
từ Smith trở thành tên họ. Tại
miền Nam Việt Nam, dân gian có thói quen dùng
con số thứ tự Hai, Ba, Tư để
gọi nhau. Tập tục này dễ đưa
tới sự lẫn lộn nên người
ta thêm từ ngữ để nhận
diện. Lối thêm từ ngữ có thể
xếp thành các nhóm sau đây:-
-Thêm địa danh: Bà Năm Sa Đéc,
Thầy Ba Cầu Bông, Dzũng Đakao, Quyên Tân
Định.
-Thêm tên nghề nghiệp: Tư thợ điện,
Năm thầy thuốc, Sáu xích lô v.v…
-Thêm nét đặc biệt: Ba Cụt, Năm
Lửa, Sáu răng vàng, Tư sún, Năm lùn.
-Thêm tài năng: Bảy đờn c̣.
-Thêm tên chính: Bảy Viễn, Sáu Đảm,
Tư Chơi, Bảy Trọng, Năm Châu.
b. Thêm từ ngữ để mô tả hoàn
cảnh: Linh Mục Léopold Cadière nghiên
cứu về cách xưng hô của người
ở vùng Nguồn Sơn, Quảng Trị cho
biết, người ta thêm các từ ngữ Mới,
Đỏ, Mẹt, Xấu, Đôi vào tên
một người để mô tả hoàn
cảnh gia đ́nh. Anh Khuyến vừa
lập gia đ́nh, dân làng Nguồn Sơn
sẽ gọi là anh Mới Khuyến, chị
Mới Khuyến. Đến khi anh chị
Khuyến có con đầu ḷng, dân làng
lại gọi là anh Đỏ Khuyến,
chị Đỏ Khuyến. Nếu anh chị
Khuyến đẻ con gái đầu ḷng, dân
làng sẽ gọi là anh Mẹt Khuyến,
chị Mẹt Khuyến. Theo linh mục Cadière,
từ Mẹt nguyên nghĩa chỉ cái
mẹt, cái nia, cái giần, nói chung là
dụng cụ xay lúa giă gạo. Công việc
này thường do đàn bà làm do đó
từ ngữ Mẹt được dân chúng
hiểu là đàn bà. Ngày nay, dân gian vẫn c̣n
dùng từ ngữ Mẹt để chỉ
đàn bà. Trường hợp sau một
thời gian đôi ba năm mà anh chị
Mới Khuyến không có con, dân làng sẽ
gọi là anh Đôi Khuyến, chị Đôi
Khuyến. Nhưng nếu anh chị Mẹt
Khuyến hay Đỏ Khuyến chẳng may có
con bị chết, hoặc vợ chồng có
người chết trước, dân làng
sẽ gọi là anh Xấu Khuyến hay
chị Xấu Khuyến.
Trong chế độ đa thê, bà vợ chính
được gọi là bà cả, các bà
thứ được gọi là trẻ
một, trẻ hai, trẻ ba. Bà vợ thứ
ba của nhà cách mạng Nguyễn Văn
Thịnh, biệt hiệu Cai Tổng Vàng,
được dân chúng gọi cô Ba Vàng. TIẾT
B: CÁCH XƯNG HÔ TÊN PHỤ NỮ CÓ CHỒNG,
CHỨC VỤ, NGHỀ NGHIỆP.
1. Cách Xưng Hô Tên Phụ Nữ Có Chồng:
Luật pháp và tục lệ Việt Nam cho phép người
phụ nữ khi lấy chồng được
giữ nguyên vẹn tên của ḿnh. Tuy nhiên, khi xưng
hô, lại dùng tên chồng hay chức vị
của chồng. Ví dụ bà Ngô Đ́nh Nhu, bà
Huyện Thanh Quan. Ngày nay, nhiều người
phụ nữ có chồng hay chưa chồng đều
được người khác gọi bằng chính
tên của người đó. Ví dụ bà Phan Thúy
Thanh, Bác sĩ Nguyễn Thị Ánh Ngọc. Nhưng,
đối với các văn nghệ sĩ, dân chúng
sẽ không dùng tên chồng mà dùng nghệ danh hay
bút hiệu để gọi người ấy. Ví
dụ bà Thái Thanh, Khánh Ly, Lệ Thu, Minh Đức
Hoài Trinh, Dương Thu Hương.
2. Cách Xưng Hô Tên Chức Vụ: Mục
đích của đoạn này không nhằm tŕnh bày
cách xưng hô chức vụ mà t́m hiểu xem người
Việt phối hợp thế nào giữa tên và
chức vụ. Người Việt áp dụng ba
kiểu cách sau đây: (a) tên chức vụ đặt
trước tên họ, (b) tên chức vụ đặt
sau tên họ, (c) tên chức vụ đặt trước
tên chính.
a. Tên chức vụ đặt trước tên
họ: Định luật tổng quát của
mọi quốc gia là tên chức vụ đặt
trước tên họ. Ví dụ Vua Trần Thái Tông,
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, Chủ
Tịch Hồ Chí Minh, Đại Lăo Ḥa Thượng
Thích Tịnh Khiết, Đức Hồng Y
Phạm Minh Mẫn. Trong việc giao tế, nếu
không để chức vụ đi kèm tên, sẽ
bị phê phán là chưa biết nghi thức
ngoại giao, có ư khinh miệt, và dân gian gọi là
xưng hô xách mé. Chính quyền Cộng Sản
Miền Bắc Việt Nam, khi nói đến các viên
chức chính quyền miền Nam, luôn dùng một
kiểu xưng hô không hề nhắc tên chức
vụ. Ví dụ“thằng Nguyễn Văn
Thiệu, thằng Ngô Đ́nh Diệm.”
Tuy nhiên, có những trường hợp tên
chức vụ đặt sau tên họ. Ví dụ
Ngô Tổng Thống, Hồ Chủ Tịch, Đức
Huỳnh Giáo Chủ. Vấn đề tại sao
người ta không nói Nguyễn Tổng Thống
cho ông Nguyễn Văn Thiệu hay Trần Chủ
Tịch cho ông Trần Đức Lương, hay Nông
Chủ Tịch cho ông Nông Đức Mạnh? Giáo sư
Nguyễn Ngọc Huy cho là v́ dân chúng ít tôn
trọng các ông này hơn.
b. Tên chức vụ đặt sau tên họ:
Trong các giấy tờ hành chánh, nguyên tắc
phổ quát là để tên chức vụ sau tên
chính. Ví dụ Giáo sư Nguyễn Khắc
Hoạch, Khoa Trưởng Đại Học Văn
Khoa.
c. Tên chức vụ đặt trước tên
chính: Dưới thời quân chủ, người
dân hay gọi tắt một người bằng tên
và chức vụ. Ví dụ ông Nguyễn Văn
Cấn và Nguyễn Văn Cung là đội trưởng
lính khố xanh nên gọi là ông Đội
Cấn, Đội Cung. Cụ Nguyễn Thượng
Hiền (1868-1926) giữ chức đốc học
Nam Định nên được gọi ông Đốc
Nam. Dân làng Phát Diệm vẫn thường
gọi các ông Cai Mạnh, ông Trùm Thảo, bà
Quản Tài.
3. Cách Xưng Hô Tên Nghề Nghiệp: Trong
việc giao tiếp, người Việt có thói
quen thêm tên nghề nghiệp trước tên chính.
Ta cần phân biệt hai trường hợp:
a. Với nghề nghiệp cần học
vấn cao: Những nghề cần học
vấn cao như bác sĩ, luật sư, kỹ sư,
giáo sư, linh mục, khi giao tế, thường
được người Việt gọi cả
tên nghề nghiệp lẫn tên chính. Ví dụ Bác
sĩ Trần Ngọc Ninh, Luật sư Nguyễn
Văn Huyền, Giáo sư Nguyễn Thanh Giang.
b. Với nghề nghiệp không cần học
vấn cao nhưng cần khả năng chuyên môn
như thợ mộc, thợ rèn, thợ may,
thợ nề, dân gian dùng từ Phó để thêm
vào tên chính. Ví dụ ông Phó Trinh, Phó Đức,
bà Phó Vượng. Với những người y
tá hay thơ kư văn pḥng, dân gian dùng từ Kư
hay Thơ. Ví dụ ông Thơ Thuyết, ông Kư
Thạnh, bà Thơ Hoan.
Vấn đề được đặt ra là
tại sao khi giao tế, người Việt luôn dùng
tước vị, bằng cấp, nghề
nghiệp kèm theo tên chính. Có thể là v́ tâm lư
người Việt trọng tước vị như
đă tŕnh bày trong chương một, đoạn
nói về tên tước.
MỤC II: BIỆT HIỆU
Trong mục này, ta sẽ t́m hiểu ư nghĩa
của biệt hiệu trong ngành tính danh học,
sau đó, t́m hiểu những loại biệt
hiệu mà dân gian thường dùng trong việc xưng
hô. Tại nước nào biệt hiệu cũng
rất phong phú nên biệt hiệu là đề tài
nghiên cứu rất lư thú cho các sinh viên ngành
ngữ học và dân tộc học.
TIẾT A. BIỆT HIỆU TRONG TÍNH DANH HỌC
1. Vấn Đề Danh Từ: Trong ngành tính
danh học, ngoài những danh xưng như tên
họ, tên đệm, tên chính, c̣n một
loại tên để xưng hô mà các nhà tính danh
học Anh Mỹ gọi là Nickname, Pháp gọi là
Sobriquet, và tiếng Latin gọi là Agnomen. Đối
với Việt ngữ, Giáo sư Nguyễn
Ngọc Huy dùng từ Xước hiệu. Tra Hán
Việt Từ Điển của ban Tu Thư Nghĩa
Thục, th́ Xước hiệu đồng nghĩa
với biệt hiệu hay tên riêng. Đại
Từ Điển Tiếng Việt định nghĩa:
Biệt hiệu là tên gọi thêm, ngoài tên thường
gọi dựa theo những đặc điểm
về ngoại h́nh hay tính cách. C̣n từ điển
Anh Việt của Viện Ngôn Ngữ học
Việt Nam giải thích Nickname là tên hiệu, tên
riêng, tên nhạo, tên giễu. Ngoài dân gian, chúng tôi
c̣n thấy có danh từ tên lóng.
Biệt hiệu hay tên lóng là một hiện tượng
xă hội phổ quát ở bất cứ nơi
đâu, dù c̣n sơ khai hay văn minh tiến
bộ. Tên lóng rất phổ biến ở Hy
Lạp và La Mă thời xưa. Một trong
những đại đế La Mă là Gaius Caesar
Augustus Germanicus (12-41) có biệt hiệu là Caligula,
nghĩa là chiếc giầy nhỏ, do binh sĩ
đặt v́ vua có đôi chân bé. Triết gia
Plato (428-348 TCN) của Hy Lạp mà giới trí
thức đều biết, có tên thật là
Aristocles. Tên Plato mà ta dùng ngày nay là biệt
hiệu do huấn luyện viên đô vật đặt
cho Aristocles v́ ông này có đôi vai rộng. Chữ
Plato trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là vai
rộng.
Theo các nhà tính danh học, thời sơ khai, dân
số c̣n ít, con người chưa có tên,
chỉ có biệt hiệu để phân biệt.
Sau giai đoạn biệt hiệu đến giai
đoạn con người có tên riêng. Nhưng,
khi dân số gia tăng, tên riêng không đáp
ứng được nhu cầu phân biệt, th́
con người sáng chế ra tên họ. Sau khi có tên
họ, cũng v́ nhu cầu phân biệt nên sinh ra
tên đệm. Tuy đă có hệ thống tinh vi,
nhưng biệt hiệu vẫn tồn tại.
Vậy biệt hiệu được hiểu
thế nào trong tính danh học?
2. Định Nghĩa Biệt Hiệu: Trong
khi chờ đợi các nhà Ngữ học
Việt Nam xác định từ ngữ chỉ
loại tên này, chúng tôi tạm dùng danh từ
biệt hiệu hay tên lóng với ư nghĩa
được ngành tính danh học xác định
dưới đây:
"Biệt hiệu là tên mà người khác
đặt thêm vào tên chánh hoặc thay thế cho
tên chánh của một người, một
vật, hay một nơi chốn để bày
tỏ t́nh cảm yêu thương kính trọng,
hoặc chế diễu đùa cợt, hay để
phân biệt những cá nhân trong cộng đồng".
Ví dụ biệt hiệu của chó: nai đồng
quê, mộc tồn, cây c̣n. Biệt hiệu nơi
chốn: Sàig̣n: Ḥn Ngọc Viễn Đông, Paris: Kinh
Đô Ánh Sáng. Biệt hiệu của ông Phùng
Khắc Khoan: Trạng Bùng, Ông Hoàng Hoa Thám: Hùm Xám
Yên Thế.
Khi nghiên cứu biệt hiệu của mỗi xă
hội, nhiệm vụ các nhà tính danh học không
nhằm tŕnh bày việc phải đặt
biệt hiệu thế nào, mà chú ư xem dân gian
trong xă hội đó đă căn cứ vào tiêu
chuẩn nào để đặt biệt hiệu.
C̣n biệt hiệu có độc đáo, dí
dỏm, châm biếm hay không là tùy đầu óc sáng
tạo của người đặt tên. Và
việc xác định thế nào là một
biệt hiệu độc đáo, là công việc
của các nhà Ngữ học.
3. Phân Loại Biệt Hiệu: Nếu
dựa trên tiêu chuẩn mục đích, ta có hai
loại biệt hiệu: (a) biệt hiệu để
tỏ ḷng ngưỡng mộ, (b) biệt hiệu
để chế diễu đùa cợt. Phân
loại trên chỉ có giá trị tương đối
v́ biệt hiệu loại nào cũng tiềm
ẩn ư nghĩa hài hước. TIẾT
B. CÁCH ĐẶT BIỆT HIỆU CỦA NGƯỜI
VIỆT NAM ĐỂ TỎ L̉NG NGƯỠNG
MỘ
Theo dơi lịch sử, người Việt có
bốn tiêu chuẩn để đặt biệt
hiệu tỏ ḷng ngưỡng mộ: (1) dùng
học vị, (2) dùng địa danh, (3) dùng
khả năng chuyên môn, (4) biệt hiệu do cha
mẹ đặt cho con cái.
1. Dùng Học Vị Để Đặt Biệt
Hiệu: Ta phân hai trường hợp: (a)
Học vị phối hợp với sinh quán, (b)
Học vị phối hợp với tên chính.
a. Học vị phối hợp với sinh quán làm
thành biệt hiệu tỏ ḷng ngưỡng
mộ: Ta có thể kể các ví dụ ông
Nguyễn Giản Thanh đỗ Trạng Nguyên năm
1508, quê ở làng Ông Mặc, tục gọi làng
Me nên dân chúng gọi ông là Trạng Me. Kế
cận làng Me là làng Vọng Nguyệt, tục
gọi làng Ngọt, có ông Hứa Tam Tĩnh cũng
đỗ Trạng Nguyên nên dân chúng gọi ông là
Trạng Ngọt. V́ hai làng ganh đua nên ngôn
ngữ Việt mới có thành ngữ Trạng Me
đè Trạng Ngọt. Cụ Nguyễn Khuyến
(1835-1910) đỗ đầu ba kỳ thi Hương,
Hội, Đ́nh và sinh quán ở làng Yên Đổ nên
dân chúng gọi ông bằng biệt hiệu Tam Nguyên
Yên Đổ. Ông Nguyễn Quư Tân (1814-1858) đỗ
Tiến Sĩ, gốc ở làng Thường
Lộc, được gọi là ông Nghè Thường
Lộc. Cụ Dương Khuê (1839-1902) đỗ
Tiến Sĩ triều Tự Đức, quê ở
làng Vân Đ́nh, được gọi là ông Nghè
Vân Đ́nh. Ông Phùng Khắc Khoan quê làng Phùng Xá,
tục gọi làng Bùng nên gọi Trạng Bùng. Ông
Đặng Công Chất ở làng Gióng nên gọi
Trạng Gióng. Ông Lê Quát, đỗ Tiến Sĩ
đời Trần, lúc bé làm nghề quét chợ
nên gọi Trạng Quét. Nhân vật Tống Trân
trong truyện Tống Trân Cúc Hoa, có quê ở làng
An Cầu, huyện Phù Cừ, Hưng Yên, tên Nôm là
làng Gầu nên gọi Trạng Gầu. Nhà cách
mạng Nguyễn Hải Thần đỗ Tú Tài,
quê ở làng Đại Từ nên được
gọi là ông Tú Đại Từ.
b. Học vị phối hợp với tên chính
làm thành biệt hiệu tỏ ḷng ngưỡng
mộ: Ta có thể đưa ra các bằng
chứng: ông Nguyễn Hữu Chỉnh (?-1787) đỗ
Hương Cống nên được dân chúng
gọi là Cống Chỉnh. Ông Nguyễn Quỳnh,
sống thời hậu Lê, đỗ Cống Sinh nên
được gọi là Cống Quỳnh. Ông
Nguyễn Hữu Huân (1841-1875), Nguyễn Hữu Nghĩa
đỗ đầu kỳ th́ Hương nên
được gọi là Thủ Khoa Huân, Thủ
Khoa Nghĩa. Thi sĩ Trần Tế Xương (
1870-1907) đỗ Tú Tài nên được
gọi là Tú Xương. Tại làng Phát Diệm,
vào thập niên 1960, tôi vẫn nghe thân phụ
nhắc tới các cụ Tú Chiểu, Tú Mẫn là
các người đậu Tú Tài thời Pháp
thuộc.
Ngày nay, người ta không dùng học vị
để đặt biệt hiệu v́ cấp
bằng không c̣n họa hiếm như ngày xưa
nữa. Nguyên nhân dùng tiêu chuẩn học vị
để đặt biệt hiệu là v́ ngày xưa
họa hiếm mới có người đậu Tú
Tài, Cử Nhân, Tiến Sĩ. Do đó, đạt
được học vị cao không những là
điều hănh diện cho cá nhân, gia tộc, mà c̣n
cho cả làng, cả tổng. Từ đó, sinh ra
tâm lư trọng bằng cấp, và lấy học
vị làm tiêu chuẩn đặt biệt
hiệu.
2. Dùng Địa Danh Để Đặt
Biệt Hiệu: Ta có thể kể các ví
dụ ông Vũ Đức Huyên, một danh sư
về phong thủy, sống đời vua Lê, Chúa
Trịnh, được gọi là Thánh Địa
Lư Tả Ao v́ ông sinh ở làng Tả Ao, Nghệ
An. Ông Nguyễn Thiếp (1723-1804) danh sĩ
triều Tây Sơn được gọi là La Sơn
Phu Tử v́ quê ông ở huyện La Sơn, c̣n Phu
Tử là tiếng xưng hô giữa thầy tṛ ngày
xưa. Lư Ông Trọng, người Việt Nam làm
tướng ở Trung Quốc đời nhà
Tần, được dân chúng lập miếu
thờ, và được gọi là Đức Thánh
Chèm v́ tương truyền quê ông ở làng Chèm,
huyện Từ Liêm, Hà Nội.
Tại sao người Việt lại dùng địa
danh để làm biệt hiệu? Có lẽ v́ tâm
lư muốn làng nổi tiếng nên thêm địa
danh vào tên một nhân vật có tiếng tăm
để mọi người biết tên làng.
3. Dùng Đặc Điểm Tính T́nh, Tài Năng
Để Đặt Biệt Hiệu: Với
những nhân vật lịch sử, ta có thể
kể các thí dụ:
a. Về tính t́nh: Ông Nguyễn Hữu
Cảnh (1650-1700), danh tướng đời
Nguyễn Phúc Chu, được người
đương thời gọi là Hắc Hổ v́
tinh thần dũng cảm của ông. Ông Đề
Thám, tức Hoàng Hoa Thám, hùng cứ vùng rừng núi
Yên Thế, chống Pháp rất dữ dội nên
dân chúng đặt cho ông là Hùm Xám Yên Thế. Ông
Đoàn Minh Huyên (1807-1850), vị sáng lập tông
phái Phật Giáo Bửu Sơn Kỳ Hương,
chữa bệnh cho nhiều người nên dân chúng
tôn xưng biệt hiệu là Đức Phật
Thầy Tây An. Gần đây nhất, ông Ngô Đ́nh
Cẩn, bào đệ của Tổng Thống Ngô
Đ́nh Diệm, thích ăn trầu nên dân gian vùng
Huế gọi ông là Cố Trầu.
b. Về tài năng: Dân gian cũng dùng tài năng
một người để đặt biệt
hiệu. Xin trưng ra các ví dụ: ông Vũ Huyên
giỏi cờ nên dân chúng đặt cho là
Trạng Cờ. Ông Vũ Phong giỏi vật
được đặt là Trạng Vật. Nhà
cách mạng Đoàn Trần Nghiệp (1910-1930)
được gọi là Kư Con v́ làm thư kư cho
một hăng buôn lúc c̣n trẻ. Nhà cách mạng
Nguyễn Văn Cầm (1877 ?) được
gọi là Kỳ Đồng v́ lúc nhỏ học
rất thông minh, được Pháp cho đi du
học, nhưng khi về nước đă giúp
Đề Thám chống lại Pháp ở Yên
Thế.
4. Biệt Hiệu Do Cha Mẹ Đặt Cho Con Cái:
Các gia đ́nh Việt Nam cũng như Âu Mỹ,
ngoài tên chính thức, cha mẹ c̣n đặt thêm
các tên để tỏ ḷng yêu thương, vui
mừng. Loại tên này được đặt
cho đứa bé trong khoảng từ sơ sinh
đến 3, 4 tuổi. Nếu các cha mẹ
Việt hay gọi con là Cục Cưng, Cu Tí, Gái cưng,
Thằng Chó, Chó Con v.v… th́ cha mẹ ở Anh,
Mỹ cũng gọi con bằng các tên như
Junior: Bé Tí, Sonny: Cu Tí, Sweetheart: Cục cưng.
TIẾT C: CÁCH ĐẶT BIỆT HIỆU CỦA NGƯỜI
VIỆT NAM ĐỂ CHẾ DIỄU ĐÙA
CỢT
Đặt biệt hiệu để chế
diễu đùa cợt là một hiện tượng
xă hội phổ quát trên thế giới. Khi đặt
loại tên này, người ta thường
chọn những từ ngữ hài hước, châm
biếm, mang ư nghĩa tiêu cực. Dân gian thường
căn cứ vào ba tiêu chuẩn sau đây để
đặt biệt hiệu diễu cợt: (a)
về h́nh dạng thân xác, (b) về đức tính,
(c) sửa đổi tên để châm biếm. Nơi
xuất phát loại tên này là gia đ́nh, bạn
bè, băng đảng, và các cơ quan truyền
thông xă hội.
1. Biệt Hiệu Châm Biếm Liên Quan Đến
H́nh Dạng Thân Xác : Biệt hiệu loại này
thường khai thác khía cạnh khiếm
khuyết nơi cơ thể. Các ví dụ sau
đây là tên các nhân vật trong chuyện Dzũng
Dakao của Duyên Anh: Tiến Gầy, Chương C̣m,
Tấn Mập, Hoa Rỗ, Ba Sứt Môi, Tư
Trọc. Trong vụ án Năm Cam năm 2002 tại
Việt Nam, người ta thấy tên các bị
can: Lũng Đầu Ḅ, Dũng Què. Ông Dương
Văn Minh, vị Tổng Thống cuối cùng
của miền Nam Việt Nam, bị báo chí Mỹ
đặt là Big Minh, nghĩa là ông Minh Cồ
để phân biệt với các tướng lănh
khác cùng tên như tướng Trần Văn Minh
hay Hồ Chí Minh. Ông cũng bị báo chí Việt
một thời gọi là Minh Sứt v́ ông hơi
bị sứt môi.
Trong gia đ́nh, con em nào cũng bị anh chị
em đặt cho một biệt hiệu. Xin
liệt kê một số biệt hiệu thu
thập được nơi đại gia đ́nh
chúng tôi và các gia đ́nh thân quen:
- Người gầy, nhỏ, xanh xao: bị đặt
tên là Lép, C̣i, Bủng, Ṛn, C̣m, X́ Ke.
-Béo mập có các tên: Sề, Ù, Cồ, Bộp,
Địa.
-Thân h́nh rắn chắc: Vọi.
-Dáng đi khập khiễng: Xi Cà Oe.
-Đầu to: Cồ.
-Trán : Vồ (giồ).
-Mắt có các tên Hí, Ốc, Lồi, Toét.
-Mũi: Toe, Tẹt, Phổng.
-Tai: Gị, Bẹp, Cối.
-Răng miệng: có các tên Móm, Hô, Khểnh.
-Cổ : Nọng.
-Tóc: Cọ, Hói.
Các từ ngữ trên đây có khi đứng
một ḿnh, thay thế cho tên chính, như gọi
thằng Lép, con C̣i, thằng Vọi, hoặc
được ghép sau tên chính như: Dũng Lép,
Bi C̣i, An Cồ, Yến Ù, Long Sề, Trân Vọi,
Vỹ Toe, Hải Móm, Tí Xấu.
2. Biệt Hiệu Châm Biếm Liên Quan Đến
Đức Tính: Khi đặt biệt hiệu
dựa trên tính t́nh để châm biếm, dân
gian rất ít chọn tính tốt mà chỉ
nhắm vào các tính xấu. Cổ sử ghi
những trường hợp sau: ông Nguyễn Nghiêu
Tư đỗ Trạng Nguyên đời vua Lê Nhân
Tông (tr.v.1443-1459) được dân chúng gọi là
Trạng Trư hay Trạng Lợn. Sách Đại
Việt Sử Kư Toàn Thư ghi lại nguyên nhân
như sau:
Nghiêu Tư từng thông dâm với mẹ vợ,
bấy giờ có người ghi vào chuồng
lợn là “Phường Trạng Nguyên” có người
hát ở đường cái rằng: “Trạng
Nguyên Trư-Nguyễn Nghiêu Tư” là chế
diễu hành vi xấu xa đó.
Vua Lê Trung Tông (tr.v.1548-1556) húy là Lê Duy Huyên
được dân chúng ngoài Bắc đặt
biệt hiệu là Chúa Chổm v́ trước khi
được rước về làm vua, ông
mắc nợ nhiều nên người miền
Bắc có thành ngữ: Nợ Như Chúa Chổm.
Ông Nguyễn Văn Tâm, chủ quận Cai Lậy
miệt Hậu Giang, đàn áp những chiến sĩ
chống Pháp một cách hung dữ nên dân chúng vùng
này đặt cho là Cọp Cai Lậy.
Phương pháp đặt biệt hiệu
loại này là thêm từ ngữ châm biếm vào tên
chính. Ví dụ Tư Dê Xồm, Trung Thầy
Chạy, Lan Ngựa. Một nhân vật trong tác
phẩm Dzũng Đakao của Duyên Anh được
đặt là Bồn Lừa v́ chú bé có tật thích
lừa khi đá bóng. C̣n tên Châu Kool được
Duyên Anh đặt là v́ nhân vật này chỉ hút
thuốc lá hiệu Kool. Sau đây, xin trưng ra
một số tên châm biếm mà ta thường
gặp trong các biệt hiệu:
a. Trong gia đ́nh:
-Thích nghe truyện người khác: Hóng.
-Tham ăn tham uống: Chổi, Vét.
-Hay khóc cười: Ti,Toe, Nhè.
-Tính t́nh lằng nhằng: Lèng Èng.
-Tính không chú ư: Ngáo, Ngơ, Khờ. Dại.
-Tính t́nh cong cớn: Cong, Le Te.
-Tính t́nh chanh chua: Giấm.
-Hay nói nhiều: Lẻo.
- Hay đi lang thang: Ngựa.
b. Ngoài xă hội:
-Người hay cḥng ghẹo gái : 35, Dê Xồm, Dê
Cụ.
-Tính hay khoe khoang, Nổ, Pháo Cối.
-Xử sự không biết điều : Thầy
Chạy.
-Tính du đăng: Đại Ca như Đại Ca
Thay.
-Hay nói dối : Ba Xạo.
- Nam giới có tính hung dữ: Cọp.
-Nữ giới dữ tợn : Bà Chằng, Sư
Tử Hà Đông, Cọp Cái.
-Tính keo kiệt : Trùm Ṣ.
-Nghiện thuốc phiện: Tiên Ông, Bẹp, X́
Ke.
-Chích bạch phiến : Choác.
-Lư sự gàn dở : Lư Toét, Phó Cối.
-Tính không cương quyết: Ba Phải.
-Tính lừa đảo : Ba Que Xỏ Lá.
-Tính nợ nần nhiều: Chúa Chổm.
-Ăn cắp: Chôm, Chỉa, Chà Đồ Nhôm (chôm
đồ nhà).
3. Sửa Đổi Tên Để Làm Biệt
Hiệu Châm Biếm: Một loại biệt
hiệu thường thấy trên báo chí là tên người
được sửa đổi để châm
biếm. Với người Trung Quốc, phương
pháp này rất giản dị và thích hợp v́ Hán
tự có nhiều chữ đồng âm nhưng
dị nghĩa. Ví dụ để châm chọc ông
Minh, người ta có thể dùng chữ Minh, nghĩa
là tối như chữ u minh, thay cho chữ Minh,
nghĩa là sáng. Người Tàu đă dùng cách này
để hạ nhục ba vị nữ anh hùng
Việt Nam.
Theo giáo sư nguyễn Ngọc Huy và tác giả Lăng
Nhân, hai vị nữ anh hùng họ Trưng của
chúng ta không phải tên là Trắc và Nhị như
sách vở thường ghi, mà là Chắc và Nh́.
Hai bà sống trong vùng trồng dâu nuôi tằm nên
vùng đó gọi loại kén tốt là Chắc, kén
nhỏ gọi là Nh́. Quan quân Tàu ghét hai bà nên
sửa tên thành Trắc và Nhị để châm
biếm. Trong tiếng Hán, Trắc và Nhị hàm ư
xấu. Trắc là nghiêng lệch, không thẳng
thắn như trắc nết, phản trắc. C̣n
Nhị là hai, hàm ư không trung thành, ăn ở hai
ḷng. Người ta cũng nói đến trường
hợp bà Triệu. Tên bà không phải là
Triệu Ẩu như sử sách ghi mà là Triệu
Thị Trinh. Cũng giống trường hợp
hai bà Trưng, quân Tàu đă đặt tên Ẩu
để châm biếm v́ từ Ẩu trong Hán
tự có toàn nghĩa xấu như: nôn mửa, bà
già goá, thượng thổ hạ tả, đánh
lộn. Luận cứ này có thể đúng v́
theo phong tục Trung Quốc, vua Tàu ghét ai có
quyền đặt cho người đó một tên
họ xấu như Măng : con trăn, họ
Phục: con rắn, họ Ác: ác độc.
Vấn đề này đă được tŕnh bày
trong chương hai.
Ông Hồ Chí Minh giữ chức Chủ Tịch Nhà
Nước, dân chúng miền Bắc gọi là
Hồ Chủ Tịch. Trái lại, người
miền Nam gọi là Hồ Chủ Tịt. Ông Mao
Trạch Đông bị báo chí Việt Nam châm
biếm gọi là Mao Xếng Xáng. C̣n ông
Nguyễn Văn Thiệu bị báo chí thời
đó gọi là Tông Tông Độc Diễn, v́
cuộc bầu cử chức vụ Tổng
Thống, chỉ có ḿnh ông là ứng viên. Tại
San Jose, có ông Công Thiện, ông Văn, ông Cao.
Giới văn nghệ sĩ ở đây thường
châm chọc các ông này bằng cách gọi Cụ
Văn, Cụ Cao, Cụ Công Thiện. Các tên này,
nếu nói lái, th́ Công Thiện thành Thiên
Cộng, và Cụ Văn thành“Vặn C”, Cụ
Cao thành “Cạo C”.
Tại tây phương, người ta cũng
thấy có tục lệ này. Bác sĩ y khoa Robert
Atkins, người Hoa Kỳ, đưa ra lư
thuyết gây nhiều tranh căi. Ông cho rằng dùng
nhiều chất béo không nguy hại cho bệnh tim
mạch. Đến khi ông chết v́ bệnh tim
mạch, tuần báo Time số ra ngày 23 tháng 2 năm
2004 đă viết bài châm biếm với tựa
đề Paging Dr. Fatkins?. Tên ông là Atkins nhưng kư
giả Joel Stein sửa là Fatkins với ư nghĩa bác
sĩ có da béo (Fat: béo; skin: da)
4. Biệt Hiệu Châm Biếm Dựa Trên
Nghề Nghiệp: Người Việt Nam cũng
dùng các từ châm biếm về nghề
nghiệp để đặt biệt hiệu. Ví
dụ anh Trung và Cường là hai học sinh
ở xóm tôi bị bạn bè đặt là Trung Lái
Lợn và Cường Phó Cạo v́ nhà một em
làm nghề nuôi heo, c̣n em kia bố làm nghề
hớt tóc. Sau đây xin trưng một số
từ châm biếm mà dân gian đă đặt cho
một số nghề nghiệp:
-Bác sĩ, thầy lang : Lang Băm, Lang Tây, Lang Ta
-Luật sư : Thầy Căi.
-Linh mục : Cố Đạo.
-Thượng tọa: Thầy Chùa.
-Ni cô : Bà Văi.
-Nữ tu Công Giáo : Bà Mụ.
-Kư giả: Kư Giổm.
-Thợ chụp h́nh : Phó Nḥm.
-Ca sĩ : Ca Sỡi.
-Người Trung Quốc : Chệt.
-Người Ấn Độ: Bảy Chà.
-Người Mỹ : Mẽo.
Qua cách xưng hô của người Việt Nam,
một câu hỏi đặt ra là cách xưng hô
của ta so với các nước khác thế nào?
Để trả lời câu hỏi này, ta hăy nghiên
cứu cách xưng hô của người Hoa
Kỳ.
MỤC III CÁCH XƯNG HÔ TÊN NGƯỜI TÂY PHƯƠNG
Mục này sẽ tŕnh bày ba vấn đề: (a)
Các tục lệ xưng hô, (b) Cách xưng hô
chức vụ, nghề nghiệp, và tên người
phụ nữ có chồng, (c) Cách đặt
biệt hiệu của người tây phương.
TIẾT A: CÁC TỤC LỆ XƯNG HÔ CỦA NGƯỜI
TÂY PHƯƠNG
1. Dùng Tên Họ: Ngoài xă hội, cách xưng
hô chính thức của người tây phương
là dùng tên họ. Không ai gọi Tổng Thống
Hoa Kỳ là George mà gọi là Tổng Thống
Bush hay George W. Bush. Không ai gọi Tổng Thống
Pháp là Jacques mà gọi Tổng Thống Chirac hay
Jacques Chirac. Ngoài ra, khi dùng tên họ để xưng
hô, người tây phương luôn thêm chữ
Mr. : Ông, Mrs.: Bà, Miss.: Cô vào trước tên
họ. Ví dụ Mr. Mariant, Monsieur Guillier, Madame
Pompidou, Miss. Wallace, Mademoiselle Chirac. Nếu không,
bị coi là vô lễ. Tại Hoa Kỳ, khi
biết tên một người lạ mà ta dùng tên
họ của người ấy để xưng
hô th́ được coi là cử chỉ thân
thiện, lịch thiệp. Tập tục này
được các nhân viên bán hàng trong các siêu
thị như Safeway, Albertson triệt để áp
dụng nhằm thu hút mối thiện cảm
của khách hàng đối với cửa
tiệm.
2. Về Tên Đệm: Người tây phương,
khi viết hay gọi nhân vật nào chỉ dùng tên
chính hay tên họ và bỏ tên đệm. Đôi
khi có dùng tên đệm nhưng viết tắt. Ví
dụ khi nói về ông tổ lư thuyết Cộng
Sản, ta thường thấy gọi Karl Marx, mà
không nói Karl Heinrich Marx (1818-1883), hoặc Bill Clinton
(1946-), mà không nói Bill Jefferson Clinton, hoặc Mikhail
Gorbachev (1931-), mà không nói Mikhail Sergeyevich Gorbachev.
3. Dùng Tên Chính: Với người tây phương,
chỉ những người trong gia đ́nh,
bạn bè thân thiết, hoặc đồng
nghiệp quen biết, mới được dùng tên
chính để xưng hô. Không quen biết mà dùng
tên chính để gọi là không lịch sự.
4. Tục Lệ Gọi Tên Đơn: Tại
Pháp nhiều người có tên đôi như
ứng cử viên tổng thống Pháp năm 2002
là Jean-Marie Le Pen. Người có tên ba chữ như
văn hào André-Paul-Guillaume Gide (1869-1951). Người
có tên bốn chữ như văn hào Henri-René-Albert-Guy
de Maupassant (1850-1893). Tất cả những người
trên đều có tên hai hoặc ba chữ ghép
lại, nhưng người Pháp chỉ dùng tên
đơn để xưng hô như André Gide, Guy
de Maupassant.
5. Dùng Tên Viết Tắt: Người Hoa
Kỳ có thể gọi một người nào
đó bằng tên viết tắt. Ví dụ Giáo sư
J. N. Hook mà sách của ông chúng tôi dùng làm tài
liệu tham khảo, được người ta
gọi là Mr. J. N. Mẫu tự J là tên chính, do
chữ Julius, mẫu tự N là tên đệm, do
chữ Nicolas. Một anh học tṛ Mỹ của tôi
yêu cầu tôi gọi anh là C.J v́ có tên chính là
Charlton và tên đêm Jeffrey. Tổng Thống John F.
Kennedy đôi khi được gọi là J.F.K.
Vị Tổng Thống thứ 18 của Hoa Kỳ
có tên tắt là U. S. Grant do chữ Ulysses Simpson
Grant.
6. Dùng Tên Hiệu: Tại Hoa Kỳ, và các nước
Âu Châu, người ta cũng chỉ biết các văn
nghệ sĩ, minh tinh, tài tử điện
ảnh qua các tên hiệu. Nguồn xuất phát tên
hiệu của tài tử, minh tinh Mỹ là trung tâm
điện ảnh Hollywood. Mục đích của
Hollywood là muốn người diễn viên có tên
gợi cảm, dễ gây cảm t́nh với khán
giả. Ví dụ tài tử Tony Curtis tên thật là
Bernard Schwartz. Ca sĩ Dean Martin tên thật là Dino
Crocetti. Nữ minh tinh Marilyn Monroe tên thật là
Norma Jean Mortenson, và nữ ca sĩ Lana Turner có tên
thật là Julia Jean Mildred Frances Turner. Tại Pháp, cô
đào Brigitte Bardot, nổi tiếng vào thập niên
1960, có tên thật là Camille Javal. TIẾT
B: NGUYÊN TẮC XƯNG HÔ TÊN PHỤ NỮ CÓ
CHỒNG, CHỨC VỤ, NGHỀ NGHIỆP
1. Xưng Hô Tên Người Phụ Nữ Có
Chồng: Tại Hoa Kỳ cũng như các
quốc gia Âu Châu, người phụ nữ đi
lấy chồng, tục lệ và luật pháp quy
định cô được giữ tên chính, c̣n
tên họ phải đổi sang họ chồng.
Do vậy, khi xưng hô, những người thân
quen sẽ dùng tên cái hay tên chính của cô, c̣n
những người xa lạ, sẽ gọi cô
bằng tên họ của chồng. Tuy nhiên, trường
hợp các minh tinh màn bạc th́ khác, chồng có
nổi danh bao nhiêu th́ họ vẫn giữ tên
hiệu hay nghệ danh của họ. Elizabeth Taylor
đă thay đổi chồng cả chục
lần. Đă hai lần nam tài tử Richard Burton là
chồng của bà, nhưng chẳng ai gọi là bà
Elizabeth Burton, mà vẫn gọi Elizabeth Taylor.
2. Cách Xưng Hô Tên Chức Vụ, Nghề
Nghiệp, Học Vị: Nói một cách tổng quát,
trong giao tế thường nhật, nguyên tắc
xưng hô của người Hoa Kỳ và Âu Châu
đối với các chức vụ, nghề
nghiệp, học vị cũng giống với
kiểu xưng hô của mọi nước. Tuy
nhiên, về phương diện ngoại giao,
lối xưng hô của người người
tây phương rất phức tạp. Muốn xưng
hô với một giới chức cao cấp cho
đúng nghi thức ngoại giao, người ta
phải mở từ điển để tham
khảo. Sau đây là một số kiểu cách xưng
hô chính thức đối với các giới
chức cao cấp Hoa Kỳ.
a. Với các chức vụ tôn giáo: Giới
chức tôn giáo có phẩm trật thấp,
chức vụ đặt trước tên chính.
Giới chức phẩm trật cao từ Giám
Mục trở lên, chức vụ đặt sau tên
chính. Ví dụ:
-The Reverend John R. Smith: Linh mục John R. Smith.
-The Right Reverend Monsignor John R. Smith: Đức Ông
John R. Smith.
-The Most Reverend John R. Smith - Archbishop of San Jose: Đức
Tổng Giám Mục John R. Smith - Giáo phận San
Jose.
b. Với các giới chức đại học.
Học vị đặt trước, chức
vụ đặt sau tên chính. Ví dụ Dr. John R.
Smith - Professor of…Tiến Sĩ John R. Smith, Giáo sư
đại học….
c. Giới chức ngoại giao: Ví dụ:
-The Honorable John R. Smith - American Ambassador. Ngài John R.
Smith - Đại sứ Hoa Kỳ.
-Her Exellency The Right Honorable Amelia R. Smith - British
Ambassador: Ngài Amelia R. Smith - Nữ Đại sứ
Anh Quốc.
d. Giới chức chính quyền: The Honorable
George W. Bush- President of the United States. Ngài George W. Bush
-Tổng Thống Hiệp Chủng Quốc Hoa
Kỳ.
e. Các luật sư, nha sĩ, y sĩ :
Chỉ có ba nghề này là khi xưng hô, dân Hoa
Kỳ c̣n kèm theo tên và nghề nghiệp. Ví
dụ:
-John R. Smith - Attorney at-Law: Luật sư John R. Smith.
-John R. Smith, D.D.S hay Dr. John R. Smith: Nha sĩ John R.
Smith.
-Dr. John R. Smith hay John R. Smith, M.D.: Bác sĩ John R.
Smith.
f. Về học vị: Người có văn
bằng Tiến Sĩ, gọi tắt là Dr. do
chữ doctor, sẽ được người Hoa
Kỳ gọi chung với tên. Ví dụ Dr. Martin
Luther King. Trừ văn bằng Tiến Sĩ, theo
nguyên tắc, không một học vị nào khác
được cho đi kèm với tên. Nếu
đang giữ một chức vụ, học
vị có thể đặt trước hay sau
chức vụ. Ví dụ Dr. Reverend Martin Luther King
hay Reverend Dr. Martin Luther King: Mục sư Tiến Sĩ
Martin Luther King.
(C̣n tiếp)
Nguyễn Long Thao - VietCatholic
|
|