TIẾT K. Tên Tôn Giáo: Pháp Danh - Pháp Tự
- Pháp Hiệu
Nếu các Chư Tăng và đồng bào
Phật tử có pháp danh, pháp hiệu, pháp
tự th́ đồng bào Công Giáo có tên thánh.
Chúng tôi gọi những loại tên này là tên
tôn giáo. Trong tiết này, chúng tôi nghiên
cứu tên của người theo Phật Giáo
Đại Thừa, Phật Giáo Tiểu Thừa,
tên của tín hữu Công Giáo, tên của các
vị chức sắc trong Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ.
1. Tên Của Người Theo Phật Giáo
Đại Thừa: Những người
theo Phật Giáo, ngoài những tên thông thường
như tên chính, tên hiệu v.v…c̣n có thể
có pháp danh, pháp tự, hay pháp hiệu.
a. Pháp danh: Theo Phật Học Từ
Điển của Đoàn Trung C̣n: Pháp danh là
tên đạo lư, phàm người được
thế độ làm tăng chẳng c̣n dùng
tên họ theo đời mà phải lấy tên
theo đạo do vị tôn sư đặt
cho ḿnh. Người thọ tam quy, ngũ
giới, tu tại gia cũng được
mang pháp danh, cũng kêu là pháp hiệu.
Vào năm 1973, chúng tôi được
tiếp kiến vị cao tăng tại chùa
Long Thiên Tự, xóm Bến Đ̣, tỉnh Biên
Ḥa. Ngài đă giải thích pháp danh như
sau: Muốn thành Phật tử, phải quy y
tam bảo, thọ ngũ giới. Vị
bổn sư truyền giới sẽ đặt
cho người đó một pháp danh, dựa
theo bài kệ được truyền trong môn
phái của vị bổn sư ấy. Vị
cao tăng nói trên thuộc Giáo Hội
Phật Giáo Cổ Truyền Lục Ḥa Tăng,
môn phái Lâm Tế, có tổ đ́nh Long Thiên
Tự ở Biên Ḥa, đă đọc cho chúng
tôi bài kệ sau đây để dùng trong
việc đặt pháp danh cho các đệ
tử:
Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên
Minh Như Hồng Nhật Lệ Trung Nguyên
Linh Nguyên Quảng Nhuận Từ Phong Thổ
Chiếu Thế Sơn Đăng Vạn
Cổ Truyền.
Mỗi vị tổ sẽ lần lượt
lấy một chữ trong bài kệ trên làm
chữ đứng đầu của pháp danh.
Chữ đứng sau, vị bổn sư
truyền giới tự chọn, nhưng
lấy chữ có nghĩa gần giống
với tên riêng. Thượng Tọa Thích Nguyên
Thanh, trụ tŕ tại xă Tân Sơn Ḥa Gia
Định, thuộc môn phái Lâm Tế, đă
đặt pháp danh cho một đệ tử
của ḿnh là Quảng Dũng. Thầy
giải thích như sau: chữ Quảng
lấy trong bài kệ của tổ đ́nh,
chữ Dũng được chọn v́
Phật tử đó có tên là Hùng. Mục
đích cách đặt pháp danh này là để
phân biệt các đệ tử trong cùng
một tổ đ́nh, thuộc thế hệ
khác nhau.
Đọc tiểu sử cố Đại Lăo
Ḥa Thượng Thích Đôn Hậu, ta
được biết ngài thuộc thế
hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt
Diệu Liễu Quán. Vị tổ khai sơn
Thanh Ninh Tâm Tịnh đặt pháp danh cho các
đệ tử là Trừng Nguyên, Trừng Văn,
Trừng Thùy, Trừng Huệ, Trừng Thông.
Đọc các pháp danh này, ta biết các
vị ấy thuộc cùng thế hệ v́ có
chữ Trừng đứng đầu pháp
danh. Ngài Trừng Nguyên tức Đại Lăo
Ḥa Thượng Thích Đôn Hậu. Ngài
Trừng Văn tức Ḥa Thượng Thích
Giác Nguyên. Ngài Trừng Thùy tức Ḥa Thượng
Thích Giác Nhiên. Ngài Trừng Huệ tức Thượng
Tọa Thích Giác Viên. Và Ngài Trừng Thông
tức Đại Lăo Ḥa Thượng Thích
Tịnh Khiết.
Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, cách đặt
pháp danh của Phật Giáo Đại
Thừa Việt Nam giống lối đặt
tên trong hệ thống tổ chức của
Giáo Hội Phật Giáo Trung Quốc. Xin nêu các
ví dụ điển h́nh: Nếu đọc tác
phẩm Cô Gái Đồ Long, ta thấy các
vị sư có vai vế cao nhất của phái
Thiếu Lâm lúc bấy giờ có các pháp danh
là Độ Ách, Độ Kiếp, Độ
Nạn. Dưới thế hệ này là các
vị Không Kiến, Không Trí, Không Vân, Không Tướng,
Không Như. Dưới nữa là các vị
Viên Âm, Viên Nghiệp, Viên Chân, và thấp
nhất là các vị sư Tuệ Phong,
Tuệ Thông, Tuệ Quang, Tuệ Hiền.
Các Phật tử Việt Nam thường
lấy pháp danh với các từ ngữ
khởi đầu như: Huệ, Diệu, Tâm,
Trí, Tuệ, như Diệu Lan, Diệu
Hạnh, Diệu Tâm, Trí Siêu, Tuệ Sĩ,
Tuệ Quang. Các từ ngữ trong pháp danh hàm
chứa ư nghĩa rất sâu sắc. Ví
dụ chữ Diệu và Tuệ có ư nghĩa
cao đẹp, phù hợp với tinh thần
Phật Giáo. Tác giả Đoàn Trung C̣n
giải thích hai chữ Diệu và Tuệ theo
quan điểm Phật Giáo như sau:
Diệu: Tốt đẹp, sáng láng, ngon
ngọt, sạch sẽ tinh tế, nhiệm
mầu. Những đức ấy nói không
xiết, nghĩ không cùng. Tức là cái lư
thật tướng vậy. Diệu trái
với thô, trược. Diệu tức là thoát
khỏi phiền năo, ngũ dục của phàm
phu, nhơn đó được ngũ
diệu của thánh giả.
Huệ hay Tuệ: Đức sáng suốt, thông
hiểu sự và lư, dứt điều
lầm lạc và mê muội, có ḷng quyết
định, diệt hết sở nghi .
Pháp danh được đặt trong
buổi lễ Quy Y rất trang trọng, đầy
ư nghĩa. Quy y nghĩa là hướng về
và sống theo Phật, Pháp, Tăng nên
trọng tâm của buổi lễ là lúc
Phật tử qùy trước Tam Bảo, ba
lần phát nguyện xin trọn đời quy
y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Những
lời phát nguyện này được
một hay nhiều thầy chứng giám. Trong
buổi lễ, người quy y xác nhận
sự hướng dẫn về các đấng
giác ngộ, sống theo đạo lư giác
ngộ và sống ḥa hợp với các người
cùng lư tưởng. Chính v́ yếu tố này
mà các pháp danh của những người cùng
lư tưởng, cùng do một thầy
truyền giới, có đặc điểm
chung như đă nói ở trên.
b. Pháp hiệu: Khi một Phật tử
xuất gia đi tu và được thế
độ làm tăng, vị bổn sư
sẽ đặt cho vị ấy một pháp
hiệu, đôi khi c̣n gọi là pháp tự.
Pháp hiệu là tên chính thức của vị
tu sĩ trong suốt cuộc đời hành
đạo. Pháp hiệu có ba từ ngữ.
Đối với nam tu sĩ, từ ngữ
khởi đầu là Thích, với nữ tu sĩ
là Thích Nữ. Chọn từ ngữ Thích
trong pháp hiệu có nghĩa là cuộc đời
vị tu sĩ ấy đă trọn vẹn dâng
hiến và theo đạo pháp của Đức
Thích Ca Mâu Ni là đấng đă sáng lập
ra Phật Giáo. Hai từ ngữ sau trong pháp
hiệu do tôn ư của vị trụ tŕ chùa
đó đặt theo môn phái của ḿnh. Ví
dụ Đại Lăo Ḥa Thượng Thích Đôn
Hậu khi thọ sa di giới tại giới
đàn Thuyền Tôn ở Huế, được
vị bổn sư đặt cho pháp danh là
Trừng Nguyên và pháp hiệu là Đôn Hậu.
C̣n thế danh của ngài là Diệp Trương
Thuần. Ở đây ta thấy giữa
thế danh Thuần và pháp hiệu Đôn
Hậu có sự liên hệ về ư nghĩa.
Thuần và Hậu, theo từ điển
của Đào Duy Anh, đều có nghĩa là
thực thà dầy dặn. Do kiểu cách
đặt pháp hiệu này mà người ta
biết được mối liên hệ
giữa các đệ tử trong cùng tổ
đ́nh. Đọc các pháp hiệu của các
Thượng Toạ như Thích Thiện Thông,
Thích Thiện Đạo, Thích Thiện Hào, Thích
Thiện Minh là ta biết các vị này cùng
thuộc một tổ đ́nh, một thế
hệ v́ có chung từ ngữ Thiện.
Hoặc đọc tên các Ḥa Thượng Thích
Giác Nguyên, Thích Giác Viên, Thích Giác Tiên, Thích
Giác Nhiên, ta biết các ngài thuộc một
tổ đ́nh ở chùa Tây Thiên, Huế,
thuộc thế hệ thứ 8 của pháp
Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán.
Nghiên cứu tên của các chư tăng,
Phật tử, ta thấy có lối gọi toàn
xưng là lối gọi bao gồm Chức
Vị + Pháp Danh + Pháp Hiệu. Xin kể
một số ví dụ điển h́nh:
Đại Lăo Ḥa Thượng Trừng Nguyên
Đôn Hậu, tức ngài Thích Đôn
Hậu.
Ḥa Thượng Trừng Thùy Giác Nhiên,
tức ngài Thích Giác Nhiên.
Thượng Tọa Tâm Phát Trí Siêu, tức
ngài Thích Trí siêu.
Sư Bà Tâm Hảo Diệu Không, tức ngài
Thích Nữ Diệu Không.
Đọc tên một vị tu sĩ Phật
Giáo, ta không biết được vị
đó thuộc tông phái nào và thứ cấp
trong tông phái ra sao. Sở dĩ như vậy
v́ mỗi tông phái có một bài kệ riêng và
các bài kệ đó nhiều khi có những
chữ giống nhau.
2. Tên Của Người Theo Phật Giáo
Tiểu Thừa: Pháp danh không quan trọng
trong Phật Giáo Tiểu Thừa. Người
cư sĩ và giáo sĩ cấp sa di vẫn
giữ nguyên tục danh. Pháp danh của các tu
sĩ Phật Giáo Tiểu Thừa là tiếng
Phạn, nhưng các ngài cũng phiên âm ra
tiếng Hán Việt có ư nghĩa như
tiếng Phạn. Ví dụ Ḥa Thượng
Buddhapala gọi là Hộ Giác. Ḥa Thượng
Supanno là Thiên Tuệ. Ḥa Thượng
Vansarakkhita là Hộ Tông.
Ngày mai: Tên Thánh |