|
TIẾT F: SỰ BIẾN ĐỔI TÊN
HỌ TẠI VIỆT NAM
Tên họ người Việt Nam được
coi là một chứng tích tồn tại
của một gia đ́nh, một ḍng tộc.
Tuy nhiên, người ta thấy 9 trường
hợp tên họ đă bị biến đổi:
1. Đổi Tên Họ V́ Đi Làm Con Nuôi:
Theo tục lệ, một người đi
làm con nuôi sẽ mang tên họ của gia
đ́nh đứng nuôi. Đọc Tam
Quốc Chí, ta thấy bố của Tào Tháo là
Tào Tung, xưa có tên họ là Hạ Hầu,
nhưng v́ đi làm con nuôi cho Tào Đằng
nên nhận tên họ Tào. Tại Việt Nam,
chúng tôi xin nêu ba trường hợp điển
h́nh trong lịch sử để làm ví
dụ: Hồ Quư Ly nguyên thuộc ḍng dơi người
ở Chiết Giang, Trung Quốc, có ông tổ
là Hồ Hưng Dật di cư sang nước
ta đời Ngũ Quư (907-959) ở làng Bào
Đột, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Thanh Hóa. Ông tổ bốn đời là
Hồ Liêm đi làm con nuôi cho ông Lê Huấn,
nên đổi ra họ Lê. Đến khi Lê Quư
Ly lên ngôi, ông lại đổi thành Hồ
Quư Ly.
Lư Công Uẩn, tức vua Lư Thái Tổ, là con
nuôi của nhà sư Lư Khánh Vân nên lấy tên
họ là Lư. Theo nguyên văn Đại Nam
Liệt Truyện: Lê Văn Khôi nguyên
họ Bế, con một thổ mục Cao
bằng là Văn Kiện. Khi lệ ṭng quân
cho lấy họ Công Đồng là Nguyễn
Hựu, sau theo nghịch đổi họ theo
Duyệt là Lê v́ trước kia thuộc dưới
trướng của Lê Văn Duyệt.
Việc đổi tên họ v́ đi làm con
nuôi cũng được áp dụng trong trường
hợp bán khoán cho thần thánh. Bán vào
cửa chùa lấy họ Mầu, bán vào đền
thờ Đức Trần Hưng Đạo
th́ lấy họ Trần. Đến khi đứa
trẻ lớn lên, cha mẹ làm lễ
chuộc về th́ con lại mang tên họ
của cha mẹ như xưa.
2. Đổi Tên Họ V́ Bị Bắt
Buộc: Dưới thời quân chủ,
mỗi khi thay đổi triều đại,
triều đại mới thường
muốn xoá bỏ dấu tích triều đại
cũ để ḷng dân khỏi mong nhớ.
Biện pháp áp dụng có thể là ban
quốc tính, hay bắt con cháu và những người
có tên họ triều đại cũ
phải đổi sang họ khác, với lư
do để tránh tên húy người trong hoàng
tộc.
Đời nhà Trần, sau khi Trần Thủ
Độ đưa Trần Cảnh lên ngôi,
lập ra nhà Trần (1226-1400) th́ biện pháp
đầu tiên để tận diệt nhà Lư
là đem các cung nhân, con gái họ Lư gả
cho các tù trưởng ở các vùng miền núi
xa xôi. Đến tháng Tư năm Nhâm Th́n
(1232), vua Trần Thái Tôn ra lệnh cho người
trong nước ai có tên họ Lư phải
đổi ra họ Nguyễn v́ thượng
hoàng tên húy là Lư.
Đến cuối năm Nhâm Th́n, tôn
thất nhà Lư quy tụ về thôn Thái
Đường, xă Hoa Lâm, nay là huyện Tiên
Sơn, Bắc Ninh để làm lễ tế
tổ tiên, th́ nhân dịp này, theo nguyên văn
Đại Việt Sử Kư Toàn Thư: Thủ
Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên
trên, đợi khi mọi người
uống rượu say, giật máy chôn
sống hết.
Tất cả các hành động trên là
thủ đoạn chính trị của
Trần Thủ Độ muốn tận
diệt nhà Lư. Âm mưu này được
sử gia Lê Tắc viết trong An Nam Chí Lược:
Lên ngôi được một năm, năm
Canh Dần (1230), Chiêu Thánh trao quốc chính
cho chồng là Trần Nhật Cảnh.
Tất cả tôn thất nhà Lư và b́nh dân
họ Lư đều khiến đổi sang
họ Nguyễn để dứt ḷng mong
nhớ .
V́ âm mưu tận diệt nhà Lư nên con trai
thứ của Lư Anh Tông (1138-1175) là Lư Long Tường
đă cùng đoàn tùy tùng trốn sang Đại
Hàn. Hơn tám trăm năm sau, con cháu
những người này đă về Việt
Nam thăm lại quê cha đất tổ.
Lê Thái Tông (1434-1442) truy tôn mẹ ruột là
bà Phạm Thị Ngọc Trần lên làm Cung
từ quốc thái mẫu. Năm 1435, Thái Tông
ra lệnh liệt kê tên húy của triều
đ́nh và quy định rằng: Khi
gặp chữ chính về miếu húy, ngự
danh th́ không được viết, ai có tên
họ trùng với các chữ húy th́ phải
đổi, như tên húy của Cung Từ
quốc thái mẫu là Trần nên cho đổi
thành Tŕnh.
Việc đổi họ Trần qua họ Tŕnh
cũng nằm trong âm mưu của nhà Lê
muốn dứt ḷng dân mong nhớ nhà
Trần.
3. Đổi Tên Họ V́ Vua Ban Quốc Tính:
Dưới thời quân chủ, ḍng họ
vua được gọi là quốc tính, nhân
dân ai có công lớn được vua cho
đặc ân lấy tên họ vua làm tên
họ ḿnh. Đây là tập tục của
Trung Quốc có từ đời Hán. Hán Cao
Tổ, tức Lưu Bang ban cho Lâu Kính họ
Lưu v́ đă dâng kế sách dựng thành
quách. Tại Việt Nam, triều đại nào
cũng áp dụng thể chế này và nhân dân
coi đó là một ân điển. Ví dụ
Trần B́nh Trọng là con cháu của vua Lê
Đại Hành, có ông nội làm quan dưới
triều Trần Thái Tông (1225-1258), lập
được công lớn nên được
mang quốc tính là Trần. Lê Hăn tức
Trần Nguyên Hăn thuộc ḍng dơi Trần Nguyên
Đán. Ông Hăn lập nhiều chiến công dưới
thời Lê Lợi kháng Minh nên được
ban ban quốc tính là Lê Hăn.
Nhà Lê là triều đại ban quốc tính
cho nhiều người nhất. Năm 1428, Lê
Thái Tổ (1428-1433) ra sắc chỉ vinh danh công
trạng những người theo vua khởi
nghĩa, kể cả những người
họ Trần, bằng cách ban chức tước
và quốc tính trong ba đợt cho khoảng
218 người. Việc ban quốc tính
một cách rộng răi này, theo tác giả
Trần Gia Phụng, nằm trong âm mưu
của Lê Thái Tổ muốn bịt miệng
các chức quan để ai cũng nói với
nhà Minh rằng ḍng họ nhà Trần đă
tuyệt tự. Sở dĩ như vậy, v́
Lê Thái Tổ đă xin nhà Minh phong Vương
ba lần, nhưng cả ba lần nhà Minh
đ̣i phải t́m kiếm con cháu nhà Trần
lên làm vua. Nhưng 30 năm sau, khi ngôi vị
nhà Lê đă vững chăi, vua Lê Thánh Tông
(1460-1497) ban hành hai sắc dụ liên quan đến
việc giới hạn và hủy bỏ
chế độ ban quốc tính. Năm Quang
Thuận thứ 4 (1463), vua Lê Thánh Tông ra
sắc dụ giới hạn thời gian
được hưởng quốc tính.
Sắc dụ viết như sau:
Xưa Thái Tổ ta dăi gió dầm mưa
để b́nh định thiên hạ, bấy
giờ các bề tôi có công ra sức giúp dân,
cùng chịu gian lao khổ ải, t́nh nghĩa
đều vẹn toàn, v́ thế đặc
ân ban quốc tính để tỏ ḷng yêu quư
khác thường. Nhưng con cháu các người
truyền nối lâu dài, e rằng quên mất
họ cũ của tổ tiên, trái với
đạo dạy người ta hiếu
thảo. Từ nay về sau, công thần
được đặc ân ban quốc tính
th́ chỉ một đời người
ấy, c̣n con cháu đều theo họ cũ.
Rồi 4 năm sau, năm Quang Thuận thứ
8 (1467), nghe lời tâu của Lễ Bộ Thượng
Thư Phạm Công Nghị, vua Lê Thánh Tông
hủy bỏ luôn chế độ ban
quốc tính. Câu chuyện được
Đại Việt Sử Kư Toàn Thư ghi
lại như sau:
Lễ bộ thượng thư Phạm Công
Nghị tâu rằng: Đời xưa khi
dựng nước, nhận tên nước mà
đặt tên họ (tính), nhận chia đất
mà ban tên họ (thị). Như ông Tiết
khi được phong ở đất Thương,
được ban họ Tử (Tử
thị), ông Tắc khi được phong
ở đất Thai, được ban họ
để lập tông phái. Từ đó
về sau, các đời đều có tên
họ như Ngu Thuấn là họ Diêu (Diêu tính),
Hạ Vũ họ Tự (Tự tính) Chu Văn
họ Cơ (Cơ tính), mà Cửu khanh, Tam Công,
Ngũ thần, Thập loạn đều có
công lao với nước, nhưng chưa
từng thấy ai được ban họ (nhà
vua) cả. Đến Hán Cao Tổ cho Lâu Kính
có công dâng kế sách dựng đô thành bèn
ban cho họ Lưu. Đường Cao Tổ
khen Thế Tích có khí tiết bề tôi trong
sạch nên ban cho họ Lư. Đó chỉ là
phương sách chế ngự hào kiệt mà
thôi. Nhưng nguồn vừa mới khơi ra
mà đă thành đục. Người làm tôi
th́ cũng cho thế là vinh hạnh, mà không
hiểu rằng họ hàng phải có phả
hệ, tuyệt đối không thể
lẫn lộn được. Cái sai của
việc ban tên họ có quan hệ rất
lớn. V́ người làm tôi mà cùng họ
với vua th́ bất kính, người làm con
mà quên mất gốc th́ bất hiếu. Làm
sao có kẻ bất kính bất hiếu mà làm
nên việc được. Nên sửa bỏ
lệ ấy đi. Tất cả bề tôi
đă được ban cho họ của nhà
vua đều cho đổi lại theo họ
cũ của ông cha để cho tông phái nhà
vua được phân minh, cội gốc các
họ được rơ ràng. Vua y theo.
Sang đời Nguyễn, chế độ ban
quốc tính được tái lập.
Nhiều trường hợp được
ban quốc tính mà điển h́nh là ông
Huỳnh Tường Đức (1748-?) có công
với nhà Nguyễn nên được mang
quốc tính là Nguyễn Huỳnh Đức.
Như đă tŕnh bày, chỉ có con trai
được kế thừa quốc tính.
4. Đổi Tên Họ V́ An Ninh Cá Nhân:
Khi xưa tại Trung Quốc cũng như
Việt Nam, gia đ́nh nào bị án tru di tam
tộc mà con cháu trốn thoát được,
phải đổi tên họ để tránh
bắt bớ, tránh trả thù về sau, v́
khi nộp đơn ứng thi, thí sinh
phải khai rơ tên họ của thân nhân ba
đời trước.
Khi đảng Cộng Sản Việt Nam
bắt đầu hoạt động, các
đảng viên đă lấy một bí danh khác
hẳn tên cũ để tránh thực dân Pháp
bắt bớ. Cụ thể nhất là Ông
Nguyễn Tất Thành đă đổi tên
rất nhiều lần để cuối cùng
là Hồ Chí Minh. Việc ông Hồ Chí Minh
đổi từ họ Nguyễn về
họ Hồ được Giáo sư
Trần Quốc Vượng, Giáo sư Sử
học Đại Học Tổng Hợp Hà
Nội, trong tác phẩm Trong Cơi, kể về
chuyện này và chúng tôi xin tóm tắt như
sau:
Tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An có cụ Cử Nhân Hồ
Sĩ Tạo. Cụ mê người con gái hát
ả đào tên là Hà Thị Hy. Khi cô Hy có
thai, cụ cử không cưới, nên nhà
họ Hà đă tặng không cô Hy cho một lăo
ông góa vợ tên là Nguyễn Sinh Nhậm. Cô
Hy sinh người con trai đặt tên là
Nguyễn Sinh Sắc, v́ trên giấy tờ cô
Hy là vợ ông Nguyễn Sinh Nhậm. Lớn lên,
ông Nguyễn Sinh Sắc (sau đổi là
Nguyễn Sinh Huy) kết hôn với bà Hoàng
Thị Loan sinh ra ông Nguyễn Sinh Côn tức
Hồ Chí Minh. Như vậy, ông Hồ Chí
Minh bỏ họ Nguyễn, lấy lại
họ Hồ là v́ muốn trở về
với ḍng họ ông nội là cụ cử
Hồ Sĩ Tạo.
Vào năm 1954, khi chia đôi đất nước,
một số dân miền Nam tập kết ra
Bắc, gia đ́nh ở lại miền Nam thường
đổi tên để tránh phiền
phức về an ninh chính trị. Đến năm
1975, khi miền Bắc chiếm miền Nam,
thống nhất đất nước, th́ các
gia đ́nh này lại điều chỉnh
giấy tờ hộ tịch, lấy lại tên
họ cũ. Ngược lại, tại
miền Bắc, chế độ Cộng
Sản lên án và đả kích nhà Nguyễn nên
một số người trong hoàng tộc nhà
Nguyễn ở lại miền Bắc, đă
bỏ bớt những chữ lót chứng minh
ḿnh thuộc hoàng phái. Các chữ lót đó là
Miên, Hồng, Ưng, Bảo, Vĩnh. Các
từ này sẽ được tŕnh bày
ở chương ba.
5. Đổi Tên Họ Để Hưởng
Lợi Lộc: Đối với hoàng
tộc, nhiều người mạo xưng
con cháu ḍng dơi tông phái để hưởng
tước lộc triều đ́nh. Đối
với dân gian, người ta mạo xưng
con cháu để được chia hương
hoả, điền thổ. Chắc hẳn,
sự mạo xưng này là một tệ
nạn xă hội nên dưới thời Lê
Huyền Tông (1662-1671), nhà vua đă ra sắc
lệnh:
Làm người tên phải có họ để
phân biệt tôn phái, cấm mạo xưng là
con cháu nhà thế gia triều đại trước,
hay là giả làm ra những bằng chứng
về tôn phái, mạo ra chứng thư,
lấy người chứng tá bậy bạ
để nhận càn điền thổ
của người khác. Ai trái lệnh này
sẽ bị trị tội.
Thời Pháp thuộc, nhiều người dân
không muốn khai sổ đinh để
khỏi bị đóng thuế thân, đến
khi cần việc làm, họ lấy giấy
tờ của người khác đă chết
để dùng. Từ đó, họ và con cháu
mang tên họ không thuộc ḍng họ ḿnh.
6. Đổi Tên Họ V́ Sự Nghiệp Tương
Đồng: Cho tới nay, chúng tôi biết
được hai trường hợp c̣n ghi
trong lịch sử: Trường hợp ông Hàn
Thuyên. Ông làm Thượng Thư Bộ H́nh dưới
triều Trần Nhân Tôn (1279-1293). Theo sử,
ông đă làm bài văn ném xuống sông để
đuổi cá sấu đi. Vua thấy
việc này tương tự như Hàn Dũ
bên Tàu nên cho ông được đặc ân
đổi sang họ Hàn. Từ đó, sách
vở đều ghi tên ông là Hàn Thuyên.
Ông Ngụy Thức trước tên là Đồng
Thức, người huyện Chí Linh, tỉnh
Hải Dương, giữ chức Ngự
Sử Trung Tán dưới thời nhà Hồ.
V́ nổi tiếng cương trực như
viên Tể Tướng Ngụy Trưng đời
Đường Thái Tông bên Tàu, nên vua Hồ
Hán Thương cho ông đổi họ Đồng
sang họ Ngụy.
7. Đổi Tên Họ Để Phù
Hợp Với Nghề Nghiệp: Đời
vua Trần Duệ Tông (1373-1377), có ông Đào
Hy Nhan con của Tiến Sĩ Đào Thừa
Mân, thi đậu Trạng Nguyên, rất
giỏi sử học nên cho cải ra họ
Sử tức Sử Hy Nhan. Vua Trần Dụ Tôn
làm việc trên là áp dụng nguyên tắc
ở Trung Quốc. Đời xưa Trung
Quốc đặt ra quan Chúc và Sử. Quan Chúc
coi việc tế lễ, quan Sử coi việc
nhân sự và ghi chép lịch sử. Đời
Chu có các quan Đại Sử, Tiểu
Sử, Tả Sử, Hữu Sử, Nội
Sử, Ngoại Sử. Chúc và Sử là hai
chức vụ quan trọng, ai giữ chức
vụ ấy được cha truyền con
nối. Do vậy, tên chức quan Chúc và
Sử biến thành tên họ.
8. Đổi Từ Họ Ít Thấy Sang
Họ Phổ Thông Hơn: Dưới
thời quân chủ, vua có quyền tuyệt
đối, thấy điều ǵ không
hợp ư, một tên họ họa hiếm
chẳng hạn, là vua có quyền thay đổi,
dân chúng phải tuân theo. Đại Việt
Sử Kư Toàn Thư ghi lại chuyện đổi
họ như sau:
Năm Giáp Th́n (1304), tháng Hai lấy Bùi
Mộc Đạc làm Chi hậu bạ thư
chánh chưởng trông coi Cung Thánh Từ.
Mộc Đạc tên tự là Minh Đạo,
người Hoàng Giang, họ Phí, tên Mộc
Lạc có tài năng. Thượng Hoàng cho
rằng họ Phí từ xưa không thấy có,
mới đổi làm họ Bùi. Cái tên
Mộc Lạc là điềm chẳng may,
mới đổi thành Mộc Đạc, sai
theo hầu ngày đêm. Đến nay trao cho
chức ấy. Sau này người họ Phí hâm
mộ danh tiếng của Mộc Đạc nên
nhiều người đổi thành họ Bùi
.
Về họ Chúc, Đại Việt Sử Kư
Toàn Thư ghi như sau: Anh em Ngộ Mai
vốn trước là họ Chúc, khi Nhân Tôn
xuất gia, làm nội học sinh theo hầu.
Vua cho rằng họ Chúc không phải là
họ lớn, mới đổi thành họ
Phạm. Ngộ trước tên là Kiên,
Mại trước tên là Cố. Cả hai
đều theo học Nguyễn Sĩ Cố.
Kiên tránh tên của Phán Thủ Huệ Nghĩa
đổi là Ngộ. Cố tránh tên của
thày đổi là Mại.
9. Bị Truất Bỏ Tên Họ: Dưới
thời quân chủ, một trong những h́nh
phạt nhà vua có thể áp dụng cho
những kẻ có tội, nhất là tội
phản nghịch, là truất bỏ tên
họ. Đại Việt Sử Kư Tiền Biên
ghi lại khoản luật này như sau: Năm
Kỷ Dậu (1309) mùa Đông tháng Mười,
vua ra chiếu chỉ tất cả những người
có tội phản nghịch đều bị
tước bỏ tên họ, chỉ gọi tên.
Triều đại nào cũng áp dụng
khoản luật này. Đời Lê Thái Tông
(1434-1442), Đại Việt Sử Kư Toàn Thư
ghi tên bọn phản nghịch như sau: Giết
bọn giặc phản nghịch tên là Phong, tên
Nhữ Hốt, tên An Vinh, tên Trung, tên Tồn,
tên Sĩ Văn, tên Sùng Lễ, tên Xác .
Đến đời Nguyễn, các tác
giả viết Đại Nam Liệt
Truyện khi viết tiểu sử hậu phi,
hoàng tử, công chúa, các bề tôi có công,
đều nhắc đầy đủ tên
họ, tên đệm, tên chính. Nhưng khi nói
về các nghịch thần, gian thần
của triều Nguyễn, chỉ nhắc
đến tên chính mà thôi. Ví dụ khi chép
về Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ,
Nguyễn Quang Toản, các sử gia triều
Nguyễn chỉ chép là Nhạc, Huệ,
Toản.
Ngay mai: Tên họ người Tây Phương |
Nguyễn Long Thao
VietCatholic News (Thứ Bẩy 25/12/2004) |
|
|