|
Tính danh
học Việt Nam: Tên Đệm - Lịch sử
tên đệm tại Việt Nam
VietCatholic News (Thứ Năm 13/1/2005)
CHƯƠNG BA: TÊN ĐỆM
Trong thành phần tên người Việt Nam,
giữa tên họ và tên chính, có thể có
một hay hai từ ngữ mà cho đến nay các
nhà ngôn ngữ học cũng như tính danh
học chưa thống nhất gọi là ǵ. Nhà
ngữ học Nguyễn Bạt Tụy và Giáo sư
Nguyễn Ngọc Huy gọi là tiếng lót, Giáo sư
Hà Mai Phương gọi là tên đệm hay tên
lót. Chúng tôi gọi từ này là tên đệm, v́
nó là thành phần ở giữa của tên.
Từ ngữ tiếng lót không gợi ư niệm tên,
trong khi tên đệm thực sự là thành
phần của tên.
Mục đích nghiên cứu của chương này
là t́m hiểu nguồn gốc, h́nh thức, và công
dụng tên đệm của người tây phương
và Việt Nam. Do đó, nội dung chương ba
sẽ gồm ba mục: mục một: tên đệm
của người Việt Nam, mục hai: tên
đệm người tây phương, mục ba:
so sánh tên đệm người tây phương
và Việt Nam.
MỤC I : TÊN ĐỆM CỦA NGƯỜI
VIỆT NAM
Để t́m hiểu tên đệm của người
Việt Nam, nội dung mục một sẽ t́m
hiểu: (a) Lịch sử tên đệm, (b) h́nh
thức tên đệm, (c) nhiệm vụ tên đệm
của người Việt Nam.
TIẾT A: LỊCH SỬ TÊN ĐỆM NGƯỜI
VIỆT NAM
Dân Việt bắt đầu dùng tên đệm
từ bao giờ? Đó là câu hỏi rất khó
trả lời v́ không có sử liệu nào nói
về vấn đề này. Tuy nhiên, nếu xét tên
các nhân vật lịch sử th́ thấy hầu
hết tên người trong giai đoạn
dựng nước, chỉ có tên họ và tên chính,
không có tên đệm. Cứ theo sử cũ, các
vua Hùng đều không có tên đệm: Hùng Dương
(Lộc Tục), Hùng Hiến, Hùng Lân, Hùng
Việp. Đến nhà Thục ta có Thục Phán.
Sang nhà Triệu ta có Triệu Đà. Đến
hai bà Trưng ta có Trưng Trắc, Trưng
Nhị. Về các nhân vật lịch sử khác
ta có Lữ Gia, Lư Tiến, Lư Cầm. Sang thời
Sĩ Nhiếp có Sĩ Khuông, Sĩ Hâm, Sĩ Huy.
Trước thời Lư Bôn, ta thấy rất ít người
có tên đệm. Một vài nhân vật như
Triệu Thị Trinh tức bà Triệu, Lư Ông
Trọng là có tên đệm. Sau thời Lư Bôn
(544-602) thấy rải rác một số nhân
vật lịch sử có tên đệm. Điều
đó chứng tỏ khi xưa việc đặt
tên đệm chưa phổ thông lắm. Chúng ta
có hai dữ kiện lịch sử để
hỗ trợ cho nhận xét này. Thứ nhất là
vấn đề tên đệm tại Trung
Quốc. Thứ hai là việc phổ biến Hán
tự tại Việt nam.
Tại Trung Quốc, vào triều đại
tiền Hán, Vương Măng ra lệnh dân chúng không
ai được đặt tên đệm. Gia
đ́nh nào bị đặt tên đệm th́
đó là điều nhục nhă cho gia đ́nh
ấy. Cháu của Vương Măng là Vương
Hội Tông, khi nhận được lệnh này,
đă đổi lại là Vương Tông. Đến
khi Vương Tông phạm tội, phải tự
sát th́ Vương Măng bắt người ta
gọi Vương Tông là Vương Hội Tông
để hạ nhục.
Sự kiện người Trung Quốc thời Hán
không có tên đệm có thể kiểm chứng
qua các nhân vật trong Tam Quốc Chí. Hầu như
hoàn toàn các nhân vật trong chuyện này đều
không có tên đệm, như các ông Viên
Thiệu, Viên Thuật, Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn
Quyền, Tôn Càn, Bàng Thống, Từ Thứ,
Triệu Vân, Trương Phi, Quan Công, Hàn Hạo,
Lỗ Túc, Lă Bố, Điêu Thuyền, Hoàng Trung
v.v…Nếu có gặp các tên như Lă Phụng Tiên
th́ đó là tên tự của Lă Bố, hay Trương
Dực Đức là tên tự của Trương
Phi, hay Tôn Trọng Mưu là tên tự của Tôn
Quyền. Các tên khác như Tư Mă Ư, Công Tôn
Toản, Hạ Hầu Đôn, Gia Cát Lượng,
Thái Sử Từ cũng là tên đơn v́ Tư
Mă, Công Tôn, Hạ Hầu, Gia Cát, Thái Sử là các
tên họ kép tại Trung Quốc mà chúng tôi đă
nói trong chương hai.
Sự kiện thứ hai chứng minh cho việc
Việt Nam không có tên đệm trong những
thế kỷ đầu sau Công Nguyên là việc
truyền bá chữ Hán tại Việt Nam. Cứ
theo sử cũ, Việt Nam bắt đầu dùng
chữ Hán trong giấy tờ hành chánh vào
thời nhà Triệu. Nhưng việc dậy
chữ Hán bắt đầu mạnh vào thời Sĩ
Nhiếp, tức vào khoảng thế kỷ
thứ ba trở đi.
Trong khi đó tên đệm người Việt
Nam hầu hết là các từ Hán Việt, tức
thứ chữ nho đọc theo giọng Việt
Nam. Muốn được vậy, chắc
chắn dân ta phải nhuần nhuyễn chữ Hán
lắm. Điều đó có nghĩa là phải
mất thời gian khá dài. Vậy cứ theo hai
dữ kiện trên, ta có thể tạm thời
kết luận là tên đệm của người
Việt Nam chỉ được thông dụng vào
khoảng từ thế kỷ thứ 6 trở
đi.
TIẾT B: H̀NH THỨC TÊN ĐỆM
NGƯỜI VIỆT NAM
Về h́nh thức, tên đệm người
Việt Nam có thể là: Một từ ngữ:
Nguyễn Đ́nh Chiểu, Hồ Xuân Hương,
Hoàng Kim Vui. Hai từ ngữ : Lê Thanh Minh Châu,
Đỗ Văn Quang Minh. Rất họa hiếm người
Việt Nam có ba từ ngữ. Tại nghĩa trang
Oak Hill ở San Jose, California, trên mộ phần
một em bé, chúng tôi đọc thấy Nguyễn
Hoàng Gia Anh Quốc. Dù một, hai hay ba, tất
cả đều gọi là tên đệm. Tuy nhiên,
xét về mặt liên kết với các thành
phần khác trong tên, tên đệm có thể là
thành phần độc lập, cũng có thể
liên kết với tên họ hoặc với tên chính:
1. Tên Đệm Đứng Độc Lập:
Là loại tên đệm không phối hợp
được với tên họ hay tên chính để
làm thành từ ngữ kép. Ví dụ Nguyễn
Đ́nh Chiểu, Lê Văn Trương. Từ
ngữ Đ́nh hay Văn không thể phối
hợp với tên họ, hoặc tên chính để
làm thành từ ngữ kép có ư nghĩa rộng hơn.
2. Tên Đệm Phối Hợp Với Tên Chính:
Hầu hết tên chính người Việt Nam
xuất phát từ nguồn gốc Hán Việt, và
trong văn chương, các từ ngữ này
được coi là hay hơn các từ Nôm. Do
đó, các bậc cha mẹ, khi đặt tên cho
con, đă cố gắng lựa tên đệm nào
có thể đi chung với tên chính để có
ư nghĩa rộng hơn, tốt đẹp hơn
như Nguyễn Văn Quang Minh, Trần Hùng Dũng,
Lê Phú Quư, Nguyễn Văn Thông Minh, Lê An B́nh,
Trần Thị Xuân Hương, Phan Thanh Giản,
Huỳnh Ngọc Diệp.
3. Tên Đệm Phối Hợp Với Tên
Họ: Rất ít tên người Việt có tên
đệm phối hợp được với tên
họ để làm thành từ ngữ kép có ư
nghĩa. Ngoại trừ một số họ như
Hoàng, Vơ. Ví dụ Hoàng Kim Vui. Vơ Văn Trung. Tên
đệm Kim phải đi chung với từ
ngữ Hoàng, thành Hoàng Kim mới có ư nghĩa v́
cả hai đều là từ ngữ Hán Việt.
Nếu từ Kim đi chung với từ Vui th́ không
có nghĩa. C̣n hai từ Vơ Văn có thể
hiểu là người văn vơ kiêm toàn.
4. Tên Đệm Có Hai Chữ, Một Đứng
Độc Lập, Một Phối Hợp Với Tên
Chính: Ta lấy một ví dụ cụ thể
như tên anh Đỗ Văn Quang Minh. Trường
hợp này ta có tên đệm Văn đứng
độc lập, têm đệm thứ hai là
Quang đi với tên chính là Minh, làm thành Quang
Minh, nghĩa là sáng sủa.
TIẾT C: NHIỆM VỤ TÊN ĐỆM NGƯỜI
VIỆT NAM
Đối với người Việt Nam, tên
đệm rất quan trọng, nếu đă có,
không thể bỏ đi, v́ có phần vụ rơ ràng.
Phân tích ư hướng dân gian, ta thấy tên đệm
có sáu nhiệm vụ sau đây: (1) Tên đệm
để phân biệt nam nữ, (2) Tên đệm
để phân biệt gia tộc, (3) Tên đệm
để phân biệt nội ngoại, (4)Tên đệm
để phân biệt thứ cấp, (5) Tên đệm
phối hợp với tên họ hay tên chính để
có ư nghĩa rộng hơn, (6) Tên đệm thành
tên chính.
1. Tên Đệm Để Phân Biệt Nam Hay
Nữ: Tại tây phương, đọc tên
một cá nhân, người ta thường
biết được đó là đàn ông hay
đàn bà v́ tên chính đàn bà khác đàn ông. Ngược
lại, tại Việt Nam, gặp tên Minh chẳng
hạn, ta không thể quyết đoán đây là
đàn ông hay đàn bà. Do vậy, dân gian đă có
kiểu thức đặt tên đệm để
phân biệt nam hay nữ.
a. Tên đệm trong tên nữ giới:
Khi Hán tự c̣n phổ thông người ta thường
chọn ba tiếng sau đây để làm tên
đệm cho nữ giới. Đó là Thị,
Diệu, Nữ. Xét về cấu trúc Hán tự,
hai chữ Diệu và Nữ đều có chung
một ngữ căn là chữ Nữ. Riêng
chữ Diệu có nghĩa là đẹp, khéo léo,
một đức tính vốn có của nữ
giới. Trong ba chữ đó, chữ Thị
được sử dụng rất sớm và có
nghĩa là ḍng họ. Sử liệu cho thấy bà
Triệu có tên chính là Triệu Thị Trinh. Nghiên
cứu về chữ Thị, ta thấy dân gian có
hai khuynh hướng: Khuynh hướng chữ Hán
và khuynh hướng chữ Nôm.
Khuynh hướng chữ Hán tức theo tinh
thần Trung Quốc, chữ Thị đi với tên
họ. Ví dụ Cù Thị, người đàn bà
lịch sử thời Lữ Gia, không phải tên
chính là Thị mà chỉ có nghĩa là người
đàn bà họ Cù. Trong các cổ thư như
Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, tên đàn
bà được ghi là Trần Thị, Đặng
Thị. Ngoài dân gian, trên các bia mộ, người
ta thấy: Trần Thị Chi Mộ nghĩa là
mộ phần người đàn bà họ
Trần.
Khuynh hướng chữ Nôm, tức theo tinh
thần Việt Nam, chữ Thị đi với tên
chính. Nhân vật Thị Mầu, Thị Kính trong
truyện Quan Âm Thị Kính là một bằng
chứng cụ thể. Để chỉ người
đàn bà nói chung, dân gian thường nói Thị
Mẹt.
Tại Huế, các gia đ́nh nho gia, học
thức thường dùng chữ Diệu hay Nữ
thay cho chữ Thị. Ngày nay, nhiều gia đ́nh
và chính bản thân người phụ nữ coi
chữ Thị không được ra vẻ
lắm, cho là quê mùa, nên càng ngày càng có khuynh hướng
bỏ hẳn chữ Thị trong tên đàn bà.
Điều này chẳng qua là vấn đề tâm
lư xă hội, v́ bản chất chữ Thị
chẳng có ǵ xấu, chỉ v́ tên người nào
cũng đệm chữ Thị, thành ra chữ
Thị bị mất giá. Một câu hỏi
được đặt ra là tại sao tên đàn
bà Trung Quốc không đệm chữ Thị, mà
tên đàn bà Việt Nam lại luôn luôn đệm
chữ Thị?
Hiện nay chúng tôi chưa có sử liệu nào
để trả lời câu hỏi này. Tuy nhiên,
theo sự suy luận, có lẽ tên người
đàn bà Trung Quốc không đệm chữ
Thị v́ trong tiếng Hán thời Tam Đại,
Thị để chỉ đàn ông và Tính để
chỉ đàn bà. Và khi người con gái đi
lấy chồng, theo phong tục Trung Quốc, bà
sẽ lấy họ chồng rồi đệm
chữ Thị, và được gọi là
Trần Thị phu nhân, Vương Thị phu nhân,
nghĩa là bà vợ ông họ Trần, bà vợ
ông họ Vương. Chữ Thị trong trường
hợp này có nghĩa là họ. Đối với
Việt Nam, khi ư nghĩa chữ Thị đă
bị biến đổi, trở thành tiếng
chỉ đàn bà, th́ các cụ dùng chữ này làm
tên đệm cho nữ giới để phân
biệt nam nữ.
b.Tên đệm trong tên đàn ông:Trong
tên đàn ông Việt Nam, từ ngữ nào cũng
có thể là tên đệm, nhưng nhất định
không bao giờ là chữ Thị. Tiếng thông
dụng nhất là tiếng Văn. Trong khi
tiếng Văn là tiếng độc quyền
của đàn ông Việt Nam th́ tại Trung
Quốc, tiếng Văn cũng được dùng
trong tên đàn bà. Nàng Trác Văn Quân, v́ nghe
nhạc khúc Phụng Cầu Hoàng mà trở thành
người t́nh của Tư Mă Tương Như,
là một ví dụ điển h́nh. Tại sao
từ ngữ Văn lại thông dụng như
vậy? Muốn giải thích vấn đề này,
ta phải trở về với quan niệm phân
chia giai cấp trong xă hội cổ truyền
Việt Nam.
Bốn giai cấp trong xă hội cổ truyền là
sĩ, nông, công, thương. Giai cấp sĩ là
giai cấp cao nhất, được kính
trọng hơn cả. Điều kiện cần
thiết để bước vào giai cấp này là
văn, hiểu một cách rộng răi là phải
có văn chương chữ nghĩa. Do điều
kiện này mà các bậc cha mẹ mong ước
cho con có văn chương chữ nghĩa để
bước vào giai cấp trên. Ước vọng
này thể hiện qua việc đặt chữ văn
trong thành phần tên của con. Chữ văn
trở nên thông dụng đến độ làm
ư nghĩa của nó trở nên mập mờ và
lạm dụng. Ví dụ một ông Trần Văn
Hóa, Nguyễn Văn Minh nào đó lại không
biết đọc, biết viết. Đó là
lời phê b́nh của nhiều nhà tính danh học
Việt Nam. Phê b́nh như vậy là đứng trên
quan điểm của người đă hiểu
ư nghĩa chữ văn để lư luận.
Thực ra, khi xưa, đa số dân gian bị
thất học, không hiểu ư nghĩa chữ Văn,
mà chỉ biết đại khái chữ Văn
chỉ đàn ông, chữ Thị chỉ đàn bà.
Sự hiểu biết này được thể
hiện qua tập tục nói tên. Theo tập
tục này, khi người Việt muốn nói tên
kép của một người nào đó, mà không
biết tên đệm, chỉ biết tên chính,
họ áp dụng ngay nguyên tắc đặt
chữ Văn vào trước tên chính như Văn
Đức, Văn Hiệp. Người nghe mặc
nhiên hiểu đó là ông Đức, ông Hiệp.
Cũng như nói Thị Mẹt, người nghe
mặc nhiên hiểu đó là đàn bà.
Điều đáng chú ư là ngày xưa đa
số người ít học ở nông thôn hay
giới quân nhân thường dùng chữ Văn làm
tên đệm. Bằng chứng là dưới
thời Nguyễn Phúc Ánh đánh Tây Sơn, trong
danh sách 401 binh sĩ được thờ tại
đền Tinh Trung ở phủ Diên Khánh, chúng tôi
đếm được 384 người có tên
đệm Văn, 17 người không đệm
chữ văn. Như vậy tỷ lệ đàn
ông thời xưa đệm chữ văn
chiếm khoảng 96%.
Trái lại, đại đa số giới trí
thức Việt Nam, xưa cũng như nay, đều
không dùng chữ văn. Bằng chứng là đọc
các cổ thư như Đại Việt Sử Kư
Toàn Thư, An Nam Chí Lược, Đại Nam
Liệt Truyện, ta thấy hầu hết các nhân
vật trong các sách trên là các văn quan, đều
không dùng tiếng văn làm tên đệm. Năm
2002, chúng tôi phân tích một danh sách 415 linh
mục trên mạng lưới điện toán
ở địa chỉ www.Vietcatholic
. net. Kết quả cho thấy có 22 trên tổng
số 415 vị là dùng tiếng Văn làm tên
đệm. Nếu định lượng hóa,
tỷ lệ người dùng chữ văn trong
giới trí thức hiện nay là 5%.
2. Tên Đệm Để Phân Biệt Gia
Tộc Hay Chi Họ: Như đă tŕnh bày trong
chương trước, Việt Nam có khoảng
10 họ là phổ thông nhất. Do đó, không
phải bất cứ ai cùng họ cũng đều
từ một ông tổ hay một gia tộc mà ra.
Để tránh ngộ nhận, nhiều gia tộc
dùng tên đệm để phân biệt gia
tộc hoặc chi họ. Theo tác giả Cuisinier, người
Mường tích cực áp dụng tập tục
này. Thí dụ người Mường có các
họ Cao Viết, Đinh Công, Đinh Thế,
Đinh Văn, Quách Ngay, Quách Đ́nh ở Ḥa B́nh,
họ Phạm Bá, Phạm Văn ở Thanh Hóa.
Theo bản tin :”Làng Không Mang Họ” trong báo Gia
Đ́nh và Xă Hội”đăng trên www.vnn.vn, xă Liên
Khê huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên có 13 ḍng
họ trong đó 9 ḍng mang họ Đỗ. Để
phân biệt, họ dùng tên đệm: Đỗ
Trảng, Đỗ Bá, Đỗ Trọng, Đỗ Thúc,
Đỗ Quang v.v..Các vị trưởng tộc cho
rằng Đỗ không phải là tên họ mà các tên
đệm : Trảng, Trọng, Bá, Thúc, Quang v.v…
mới là tên họ. Từ đó các cụ xin
đổi tên họ mới là Trảng, Trọng,
Bá. Thúc.
Theo thiển ư, đây là chuyện hiểu lầm
v́ như chúng tôi đă nói ở phần tên
họ ghép, khi thành lập làng, thường
chỉ có một hai ḍng họ. Đến khi gia
tộc phát triển, các cụ dùng tên đệm
để phân biệt chi phái. Bằng chứng là
các tên đệm: Bá, Trọng, Thúc là các từ
chỉ thứ cấp trong thân tộc. Các cụ cũng
nại ra lư do con gái làng này có tục lệ
lấy tên đệm làm họ, như Trảng
Thị Hoa, Trọng Thị Nhung v.v…Từ đó các
cụ cho rằng từ Trảng mới là tên
họ. Đây lại là chuyện hiểu lầm v́
xưa có quan niệm nữ nhân ngoại tộc.
Tổ tiên làng Liên Khê xưa không để
nữ nhân mang ḍng họ Đỗ mà lấy tên
đệm làm tên họ “tạm” với ư nghĩa
người đàn bà này thuộc chi phái
Trảng, Trọng, Thúc, Bá của ḍng họ Đỗ.
Đối với khối người kinh,
nhiều gia đ́nh cũng áp dụng nguyên
tắc này. Bằng chứng là nhiều gia tộc
khi viết gia phả, đều ghi cả tên
họ và tên đệm như gia phả họ
Trần Đ́nh, gia phả họ Bùi Thái, Hoàng
Ngọc. Vấn đề này đă được
chúng tôi đă tŕnh bày kỹ ở chương
hai, Tiết mục E: Tên Họ Ghép Để
Biểu Lộ Ư Niệm Huyết Thống.
3. Tên Đệm Để Phân Biệt Liên Hệ
Nội Ngoại: Trong xă hội cổ truyền
Việt Nam, người phụ nữ bị coi là
“nữ nhân ngoại tộc”, nghĩa là “con gái
là con người ta” nên không được
đặt tên đệm giống tên của các
anh em trai ruột thịt. Ví dụ điển h́nh
là gia đ́nh của ban hợp ca Thăng Long,
nổi tiếng vào những thập niên 60, 70.
Chỉ tên con trai được đệm
chữ Đ́nh, tên con gái đệm chữ Thị.
Thân phụ ca sĩ Mai Hương là cụ
Phạm Đ́nh Sỹ, sau đó, đến cụ
Phạm Đ́nh Chương, tức Hoài Bắc,
rồi cụ Phạm Đ́nh Viêm, tức Hoài Trung. C̣n
hai chị em gia đ́nh này là các cụ bà
Phạm Thị Thái Hằng, vợ của nhạc
sĩ Phạm Duy, cụ bà Phạm Thị Thái
Thanh, tức ca sĩ Thái Thanh không được
đệm chữ Đ́nh.
4. Tên Đệm Để Phân Biệt Vai
Vế Trong Gia Tộc: Hậu quả tất nhiên
của chế độ đa thê trong xă hội
cổ truyền là gia đ́nh với cảnh con
đàn cháu đống. Thêm vào đó, đơn
vị xă hội nước ta không phải là cá
nhân, mà là gia đ́nh. Những chuyện lũy
đại đồng đường theo kiểu
gia đ́nh Trương Công Nghệ vẫn
được truyền tụng trong dân gian như
một khuôn mẫu lư tưởng. Từ đó,
người ta thấy cần thiết phải phân
biệt ngôi thứ trong họ hàng bằng cách
đặt tên đệm cho mỗi người
trong gia tộc. Tập tục này có từ
thời đầu nhà Hán. và sáng kiến này
quả thực là nét độc đáo, nó
vừa đề cao sự thống nhất gia
đ́nh, vừa tách rời cá nhân ra khỏi
tập thể, đồng thời giúp cho việc
xác định thứ vị trong việc thờ cúng
tổ tiên được dễ dàng. Mỗi giai
cấp xă hội áp dụng cách thức khác nhau:
a. Cách thức của đa số dân gian: Khi
xưa dân gian thường dùng 5 từ ngữ thân
tộc là Bá, Mạnh, Trọng, Thúc, Quư làm tên
đệm để phân biệt con bác, con chú.
Con người anh cả đệm chữ Bá, con
các em trai lần lượt đệm chữ
Mạnh, Trọng, Thúc, Quư. Cũng có gia đ́nh dùng
chữ Bá cho toàn thể các con trai đời
thứ nhất, chữ Mạnh cho đời
thứ hai, đến đời thứ năm dùng
tiếng Quư.
b. Cách thức của các gia đ́nh danh giá, nho
gia: Các cụ không dùng 5 từ ngữ trên mà
tự đặt một bài thơ. Mỗi
tiếng trong bài thơ là một tên đệm
cho mỗi thế hệ. Thí dụ điển h́nh
là gia đ́nh cụ Dương Khuê (1839-1902)
được vua Tự Đức ban cho bài thơ
16 chữ dùng làm tên đệm cho các con trai, cháu
trai để phân biệt người trong mỗi
thế hệ. Theo sách Dương Gia Phả Kư, bài
thơ của vua Tự Đức như sau:
Tự Thiệu Hồng Nghiệp
Vi Bang Gia Ky
Thế Tế Kỳ Mỹ
Chúc Khánh Dụ Chi
Theo bài thơ trên, ta biết nhạc sĩ Dương
Thiệu Tước thuộc thế hệ thứ
hai, tức hàng cháu của cụ Dương Khuê.
Gia đ́nh cụ Dương Lâm (1845-1915), em
cụ Dương Khuê, đă áp dụng tên đệm
để phân biệt con gái, con dâu, cháu gái,
chắt gái.
Con gái đệm chữ Hà
Cháu gái đệm chữ Nguyệt
Chắt gái đệm chữ Vân
Con dâu đệm chữ Nhật
c. Cách thức của hoàng tộc nhà Nguyễn:
Vua Minh Mạng có nhiều quyết định liên
quan đến vấn đề tên người
Việt Nam. Ngài ban tên họ cho nhiều sắc dân
thiểu số, kể cả cho người Lào,
người Miên. Với hoàng tộc, ngài
quyết định những người họ
Nguyễn theo chúa Nguyễn Hoàng vào Nam th́ gọi
là họ Tông Thất Nguyễn Phúc, những người
ở lại Bắc gọi là Công Tính Nguyễn
Hựu. Đối với 11 con trai của vua Gia
Long (1802-1819), vua Minh Mạng đặt ra Đế
Hệ Thi, Ngự Chế Mạng Danh Thi, Phiên
Hệ Thi để quy định cách đặt
tên trong hoàng tộc. Đế Hệ Thi là bài thơ
gồm 20 chữ, mỗi chữ sẽ được
dùng làm tên đệm cho các thế hệ sẽ
lên ngôi thiên tử.
Đế Hệ Thi
Miên Hồng Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Quư Định Long Trường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thế Thoại Quốc Gia Xương.
Theo bài thơ trên, con vua Minh Mạng đệm
chữ Miên: Nguyễn Phúc Miên Tông, tức vua
Thiệu Trị, Nguyễn Phúc Miên Thẩm: Tùng
Thiện Vương, Nguyễn Phúc Miên Trinh: Tuy Lư
Vương.
Hàng cháu vua Minh Mạng đệm chữ Hồng:
Nguyễn Phúc Hồng Nhậm tức vua Tự
Đức, Nguyễn Phúc Hồng Hưu, Nguyễn
Phúc Hồng Y.
Hàng chắt vua Minh Mạng đệm chữ Ưng:
Nguyễn Phúc Ưng Đăng: vua Kiến Phúc.
Nguyễn Phúc Ưng Lịch,
Nguyễn Phúc Ưng Chân: vua Dục Đức.
Hàng chút vua Minh Mạng đệm chữ Bửu:
Nguyễn Phúc Bửu Lân: vua Thành Thái. Bác sĩ
Nguyễn Phúc Bửu Hội, Linh mục Nguyễn
Phúc Bửu Dưỡng, Giáo sư Nguyễn Phúc
Bửu Cầm, Nguyễn Phúc Bửu Lịch.
Hàng dưới nữa đệm chữ Vĩnh,
Bảo v.v… Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy tức
vua Bảo Đại. Nguyễn Phúc Bảo Long
tức con vua Bảo Đại.
Ngự Chế Mạng Danh Thi là bài thơ liên quan
đến quy tắc đặt tên chính nên
sẽ nói trong chương bốn: Tên Chính
Của Người Việt Nam.
Phiên Hệ Thi gồm 10 bài. Mỗi bài dành cho
một người anh em của vua Minh Mạng và
thế hệ con cháu của các người đó
sẽ dùng một chữ trong bài thơ làm tên
đệm.
Bài 1: ngài Tăng Duệ, Hoàng Thái Tử của
vua Gia Long
Mỹ Duệ Tăng Cường Tráng
Liên Huy Phát Bội Hương
Linh Nghi Hàm Tốn Thuận
Vỹ Vọng Biểu Không Quang.
Bài 2: ngài Kiến An Vương, hoàng tử
thứ 5
Lương Kiến Ninh Ḥa Thuật
Du Hành Suất Nghĩa Phương
Dưỡng Di Tương Thực Hảo
Cao Túc Thể Vi Tường.
Bài 3: ngài Định Viễn Quận Vương,
hoàng tử thứ 6
Tịnh Hoài Chiêm Viễn Ái
Cảnh Ngưỡng Mậu Thanh Kha
Nghiễm Khác Do Trung Đạt
Liên Trung Tập Cát Đa.
Bài4: ngài Diên Khánh Vương, hoàng tử thứ
7
Diên Hội Phong Hanh Hiệp
Trùng Phùng Tuấn Lăng Nghi
Hậu Lưu Thành Tú Diệu
Diễn Khánh Thích Phương Huy.
Bài 5: ngài Điện Bàn Công, hoàng tử thứ
8
Tín Diện Tư Duy Chánh
Thành Tồn Lợi Thỏa Trinh
Túc Cung Thừa Hữu Nghị
Vinh Hiển Tập Khanh Danh.
Bài 6: ngài Thiệu Hóa Quận Vương, hoàng
tử thứ 9
Thiện Thiệu Kỳ Tuần Lư
Văn Tri Tại Mẫn Du
Ngưng Lân Tài Chí Lạc
Địch Đạo Doăn Phu Hưu.
Bài 7: ngài Quảng Oai Công, hoàng tử thứ 10
Phụng Phủ Trưng Khải Quảng
Kim Ngọc Trác Tiêu Kỳ
Điển Học Kỳ Gia Chí
Đôn Di Khắc Tự Tŕ.
Bài 8: ngài Thường Tín Quận Vương, hoàng
tử thứ 11
Thường Cát Tuân Gia Huấn
Lâm Trang Túy Thạnh Cung
Thận Tu Di Tấn Đức
Thọ Ích Mậu Tân Công.
Bài 9: ngài An Khánh Vương, hoàng tử thứ
12
Khâm Tùng Xưng Ư Phạm
Nhă Chánh Thủy Hoằng Quy
Khải Dễ Đang Cần Dự
Quyến Ninh Công Tráp Hy.
Bài 10: ngài Từ Sơn Công, hoàng tử thứ 13
Từ Thể Dương Quỳnh Cẩm
Phu Văn Ái Diệu Dương
Bách Chi Quân Phụ Dực
Vạn Diệp Hiệu Khuông Tương.
Theo các bài thơ trên, những người
thế hệ thứ nhất, sẽ lấy
những chữ đầu của 11 bài thơ làm
tên đệm là Miên, Mỹ, Lương,
Tịnh, Diên, Tín, Thiện, Phụng, Thường,
Khâm, Từ. Ví dụ:
Ḍng Đế :Vua Thiệu Trị: Miên Tông.
Ḍng Tăng Duệ Hoàng Thái Tử: Công tử
Mỹ Đường.
Ḍng Kiến An Vương: Công tử Lương
Kỳ.
Ḍng Định Viễn Quận Vương: Công
tử Tịnh Cơ.
Ḍng Diên Khánh Vương: Công tử Diên Vực.
Ḍng Điện Bàn Công: Công tử Tín Kiên.
Ḍng Thiệu Hóa Quận Vương: Công tử
Thiện Khuê.
Ḍng Quảng Oai Công: Công tử Phụng Tại.
Ḍng Thường Tín Quận Vương: Công
tử Thường Nhậm.
Ḍng An Khánh Vương: Công tử Khâm Thịnh.
Ḍng Từ Sơn Công: Công tử Từ Đàn.
Những người trên đây là con bác, con chú,
ngang hàng với hoàng tử Miên Tông, tức vua
Thiệu Trị. Cũng nhờ các bài phiên hệ
thi mà ta biết được Hoàng Thân Nguyễn
Phúc Cường Để là ḍng dơi đời
thứ 4 của Hoàng Tử Cảnh, và con ông Cường
Để là Nguyễn Phúc Tráng Liệt. Chữ Cường
và chữ Tráng có trong bài thơ thứ nhất dành
cho Tăng Duệ Hoàng Thái Tử.
Thực ra, chỉ các tên đệm đặt cho
ḍng đế trong bài Đế Hệ Thi là
thấy con cháu tích cực lưu truyền, nên
trong thực tế, ta gặp nhiều tên như:
Miên Thẩm, Miên Trinh, Hồng Hưu, Hồng Dân,
Hồng Nhậm, Ưng Đăng, Ưng Lịch,
Bửu Lộc, Bửu Dưỡng, Bửu
Cầm, Bửu Lịch, Vĩnh Thụy, Vĩnh
San. C̣n các tên đệm khác trong 10 bài phiên
hệ thi, ta không thấy con cháu vua Minh Mạng
triệt để áp dụng, nên không gặp các
tên khởi đầu với các chữ như
Mỹ, Lương, Tịnh, Diên v.v… giống
kiểu thức Miên Trinh, Ưng Đăng, Bửu
Lộc, Vĩnh Thụy của ḍng đế
hệ. Con cháu thuộc ḍng đế chỉ
viết tên đệm và tên chính để dân chúng
biết họ thuộc hoàng phái nên người
Việt thường bị lầm tưởng các
từ Miên, Hồng, Ưng, Bửu, Vĩnh là tên
họ. Thực ra, đó là tên đệm và tên
đầy đủ của họ là Nguyễn Phúc
Ưng Đăng hay Nguyễn Phúc Bửu Lộc..
5. Tên Đệm Phối Hợp Với Tên Chính
Hay Tên Họ Để Có Nghĩa Rộng Hơn:
Tuyệt đại đa số tên đệm
của người Việt Nam được
đặt để phối hợp với tên chính
hoặc tên họ để có ư nghĩa rộng
hơn, và khi đọc lên có âm thanh hài ḥa,
phản ảnh đúng nguyện vọng của
cha mẹ mong muốn cho con cái. Ví dụ để
diễn tả ước vọng cho con có dung nhan
đẹp đẽ, tên đọc lên có âm thành
hài ḥa, cha mẹ đặt tên cho con là Ngọc
Diệp. Ngọc Diệp nghĩa là chiếc lá
bằng ngọc. Hoàng Điệp: con bướm màu
vàng. Thanh Lan: hoa lan màu xanh. Kim Liên: hoa sen bằng vàng.
Để diễn tả ước vọng con có
đức hạnh tốt, cha mẹ đặt tên
cho con là Nhân Nghĩa, Trung Tín, Tấn Đức
v.v…
Tên đệm sẽ c̣n biến chuyển ra sao
nữa, chúng tôi chưa dám có dự đoán, nhưng
cuối thế kỷ 20, đă thấy mộ
phần một em bé Việt Nam tại San Jose có tên
5 chữ: Nguyễn Hoàng Gia Anh Quốc.
6. Dùng Tên Đệm Làm Tên Chính: Một
hiện tượng thấy xuất hiện trong các
gia đ́nh quư phái là các người trong gia đ́nh
đều có tên chính giống nhau, nhưng tên
đệm khác nhau. Tên đệm lúc đó
trở thành tên chính. Ví dụ các công chúa
của vua Minh Mạng có tên là Trọng Khanh, Trúc
Khanh và Quư Khanh. Gia đ́nh học giả
Nguyễn Đổng Chi, tác giả của
nhiều sách văn chương, lịch sử,
đă đặt tên cho con là Nguyễn Việt
Chi. Gia đ́nh người bạn chúng tôi là ông
bà Nguyễn Việt Anh đă đặt tên cho các
cô con gái là Nguyễn Trâm Anh, Nguyễn Lan Anh,
Nguyễn Tố Anh, và cậu con trai là Nguyễn
Quốc Anh.
Hiện tượng trên đây đă thấy
xuất hiện tại Trung Quốc từ lâu. Gia
đ́nh họ Tống nổi tiếng ở Trung
Quốc có bốn chị em đều tên là Linh.
Tống Khánh Linh tức bà Tôn Văn, Tống
Mỹ Linh tức bà Tưởng Giới Thạch,
Tống Ái Linh, Tống Diệu Linh. Con ông Tưởng
Giới Thạch là Tưởng Kinh Quốc và Tưởng
Vĩ Quốc.
Qua sáu nhiệm vụ nói trên, ta thấy đa
số tên đệm được đặt ra
để phối hợp với tên chính làm thành
tên kép. Nhưng, thật là điều khó khăn
khi ta phải phân biệt trường hợp nào
là tên đệm, trường hợp nào để
phối hợp với tên chính làm thành tên kép. Lư
do là v́ chúng ta không hiểu được ư hướng
của gia đ́nh khi đặt tên ấy. Ví
dụ chữ Văn trong tên ông Trần Văn Minh
hoặc Trần Văn Hóa nào đó, vừa có nghĩa
chỉ đàn ông như đă nói trên, vừa có
thể đi chung với tên chính để
diễn tả ư nghĩa văn minh, văn hóa. Tên
em Nguyễn Hoàng Gia Anh Quốc phải chăng có
tên họ kép Nguyễn Hoàng, hay tên chính của em
là Hoàng Gia Anh Quốc. Và như thế, giả
sử phải xưng hô với em, ta gọi em là
Quốc hay cả bốn tên Hoàng Gia Anh Quốc?
MỤC II: TÊN ĐỆM CỦA NGƯỜI TÂY
PHƯƠNG
Để t́m hiểu tên đệm của người
tây phương, nội dung mục hai gồm hai
tiết: (a) nguồn gốc tên đệm của
người tây phương, (b) nhiệm vụ tên
đệm của người tây phương.
TIẾT A: NGUỒN GỐC TÊN ĐỆM NGƯỜI
TÂY PHƯƠNG
Trước thế kỷ thứ 10, người
Âu Châu chỉ có tên chính để phân biệt
những cá nhân. Đến thế kỷ 11 và 12,
Âu Châu bắt đầu có tên họ. Đến
thế kỷ 14, vào năm 1363, tại Anh Quốc
người ta thấy một người đầu
tiên có tên đệm. Đó là ông John Philip Capel.
Nhiều nhà tính danh học cho rằng người
tây phương đă có tên đệm trước
thế kỷ thứ 10 với bằng chứng là
tại các nước theo Kitô Giáo như Tây Ban
Nha, Ư, người Công Giáo thường có tên thánh
đôi, gồm một vị thánh nam, một
vị thánh nữ như Juan-Maria, Anna-Jose, Jean-Marie.
Tục lệ này từ Tây Ban Nha lan sang Pháp và
từ Pháp ra khắp cả Âu Châu. Ngày nay, người
ta vẫn giữ tục lệ đặt tên thánh
đôi, như ứng cử viên Tổng Thống
Pháp năm 2002 có tên là Jean-Marie Le Pen. Nhiều nhà
tính danh học khác bác bỏ lập luận này và
cho rằng tên Jean-Marie hay Anne-Joseph chỉ là tên chính
ở h́nh thức kép. Họ cũng nêu bằng
chứng là các nước Bắc Âu ít chịu
ảnh hưởng Kitô Giáo, dân chúng chỉ có tên
đơn. Tại Mỹ Châu, đến đầu
thế kỷ 19, theo tác giả Mary P. Lee, người
ta mới có tên đệm. Bằng chứng là
trong số 56 đại biểu kư tên vào bản
Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, ngày 4 tháng 7 năm
1776, chỉ có 3 đại biểu là có tên đệm.
C̣n lại 53 vị chỉ có tên chính và tên
họ.
Đối với Việt Nam, bất cứ từ
ngữ nào cũng có thể là tên chính hay tên
đệm, nhưng với các nước tây phương,
tên họ, tên đệm và tên chính khác hẳn
ngôn ngữ thông thường. Riêng tên đệm,
v́ xuất hiện sau cùng nên đă mượn
cả tên họ lẫn tên chính làm tên đệm.
Công thức tổng quát tên người Âu Mỹ
như sau: TÊN CHÍNH + TÊN ĐỆM + TÊN HỌ.
Với người tây phương, tên đệm
không quan trọng như tên đệm người
Việt Nam hay Trung Quốc, người ta có
thể bỏ đi. Ví dụ Nikita Khrushchev
(1894-1971), bỏ tên đệm Sergeyevich, Karl Marx
(1818-1883), bỏ tên đệm Heinrich. Nếu có
viết tên đệm, người ta cũng
chỉ viết tắt như John F. Kennedy (1917-1963),
George W. Bush (1947- ).
TIẾT B: NHIỆM VỤ TÊN ĐỆM NGƯỜI
TÂY PHƯƠNG
1. Tên Đệm Ghi Dấu Tích Lịch Sử
Gia Đ́nh: Người tây phương lấy
tên họ làm tên đệm để ghi dấu
lịch sử gia đ́nh. Nguyên tắc này áp
dụng cho phụ nữ và con cái.
a. Đối với phụ nữ: Theo
luật pháp và tục lệ, khi người
phụ nữ tây phương lập gia đ́nh, cô
được giữ tên chính, và phải
nhận tên họ chồng. C̣n tên họ của cô,
tục lệ quy định để làm tên
đệm. Xin nêu trường hợp cụ
thể của cô Jacqueline Bouvier (Jacqueline: tên chính,
Bouvier: tên họ). Khi cô này lập gia đ́nh
với ông John F. Kennedy, th́ tên bà là Jacqueline Bouvier
Kennedy. Đọc tên này, ta biết bà Jacqueline có
họ là Bouvier, lập gia đ́nh với ông
họ Kennedy. Đến khi Tổng Thống Kennedy
chết, bà Jacqueline tái giá, tên mới của bà là
Jacqueline Bouvier Kennedy Onassis. Đọc tên này, ta
biết lai lịch của bà Jacqueline có họ là
Bouvier, đă kết hôn với ông Kennedy và bây
giờ có chồng tên họ là Onassis. Khi người
phụ nữ Anh và Hoa Kỳ ly dị, luật pháp
cho phép họ lấy lại tên họ cũ.
b. Đối với các con trong gia đ́nh: Tên
họ người phụ nữ Anh Mỹ trước
khi lấy chồng gọi là maiden name và người
Âu Châu, nhất là người Tô Cách Lan, lấy
tên này làm tên đệm cho các con để
kỷ niệm cuộc hôn nhân giữa hai ḍng
họ. Ví dụ anh chàng Mỹ John Walker Lindh ở
California, theo Taliban tại Afghanistan, chống
lại Hoa Kỳ, có tên đệm là Walker. Tên
Walker là tên họ của mẹ anh ta. Trong các
mẫu đơn xin thẻ tín dụng tại Hoa
Kỳ, các cơ sở tín dụng thường
hỏi tên họ mẹ của người xin
thẻ v́ tên họ mẹ chính là tên đệm
của đương đơn. Đôi khi, người
ta dùng cả tên ông bà nội, ông bà ngoại hay
ông bà cố tổ làm tên đệm, nếu
những người này nổi tiếng.
Chúng ta hăy xét gia phả của hai cha con đều
là Tổng Thống Hoa Kỳ có tên là George W. Bush
để chứng minh cho định luật này.
Gia phả được báo Time xuất bản
ở Hoa Kỳ công bố trong số ra ngày 27 tháng
12 năm 2004. Tổng Thống cha có tên đầy
đủ là George Herbert Walker Bush (1924 - ) và
Tổng Thống con có tên đầy đủ là
George Walker Bush (1946- ). Ông Bush cha lấy hai từ
Herbert Walker làm tên đệm v́ đó là tên đệm
và tên họ của ông ngoại. Ông ngoại tên
là George Herbert Walker ( 1875-1953). C̣n Tổng Thống
Bush con lấy tên đệm Walker v́ đó là tên
họ của bà nội. Bà nội của Tổng
Thống Bush con là Dorothy Walker Bush (1901-1992)
Tác giả Mary P. Lee nêu một thí dụ cụ
thể: Tại tiểu bang Pennsylvania, người
ta lấy tên họ Ambler của vị nữ anh hùng
ở đó để đặt tên cho thành
phố và ông Harold Ambler Wilcox là hậu duệ
của bà cố tổ này đă lấy tên Ambler
làm tên đệm cho gia đ́nh.
Phong tục ở các nước nói tiếng Tây
Ban Nha, hay Bồ Đào Nha, c̣n dùng cả tên
họ bố, tên họ mẹ trong tên người
con. Công thức là: Tên Con + Tên Họ Bố + Tên
Họ Mẹ. Ví dụ tên nhà lănh tụ Cộng
Sản Nicaragua là Daniel Ortega Saavedra. Daniel là tên chính,
Ortega là tên họ bố, Saavedra là tên họ
mẹ.
Phong tục Ba Tây, Mễ Tây Cơ c̣n dùng tên
họ ông bà nội ngoại làm tên đệm cho
con cháu. Tại Ba Tây, công thức đặt tên
của một người là: Tên Chính + Tên Đệm
+ Tên Họ Bà Cố Nội + Tên Họ Ông Cố
Nội + Tên Họ Bố. Ví dụ tên đầy
đủ của một người Ba Tây: Eliana
Marcia Villela Gomes Soares.
Người ta cũng có thể dùng tên của
một người tổ tiên trong ḍng tộc
để làm tên đệm. Trường hợp
này tổ tiên thường là người nổi
tiếng và con cháu muốn dùng tên người này
làm tên đệm để tưởng nhớ
tổ tiên. Tác giả Mary P. Lee kể rằng ông
Stephen Livingstone Price đă lấy tên đệm là
Livingstone v́ ông Livingstone, một nhà thám hiểm
thời danh của Hoa Kỳ, là ông cố của
gia đ́nh ông Price.
2. Tên Đệm Để Phân Biệt Thế
Hệ: Người Anh Mỹ áp dụng bốn
phương cách để phân biệt thế
hệ:
a. Thứ nhất, dùng chữ Junior. Người
Anh Mỹ có tục đặt tên cha con giống
nhau như hai cha con ông Bush đều làm Tổng
Thống Hoa Kỳ. Một ông là George Herbert Walker
Bush (1924- ), ông kia là George Walker Bush (1946). Để
phân biệt cha con, cách thứ nhất là thêm
từ ngữ Junior, thường viết tắt là
Jr., nghĩa là ít tuổi hơn. Đọc tên
George W. Bush Jr. ta biết ông này là con, và ông George
Bush là cha. Một khi cha qua đời, ông con
sẽ bỏ chữ Junior.
b. Thứ hai, dùng tên đệm khác nhau: Khi tên
chính của cha con giống nhau, người Anh
Mỹ áp dụng phương pháp đặt tên
đệm khác nhau để phân biệt thế
hệ cha con. Ví dụ các con của ông Gordon
Connelly Jackson đều có tên là Gordon. Ông sẽ
chọn tên đệm khác nhau cho mỗi người
con: Gordon Wood Jackson, Gordon Smith Jackson, Gordon Lee Jackson.
Để tránh lẫn lộn, gia đ́nh dùng tên
đệm để xưng hô.
c. Thứ ba, lấy tên bố rồi thêm
tiếp vĩ ngữ làm tên đệm. Nguyên
tắc tổng quát ở Nga là con trai dùng tiếp
vĩ ngữ ICH hay OVICH, con gái dùng tiếp vĩ
ngữ VA hay OVA. Ví dụ đọc tên vị
cựu Tổng Bí Thư Đảng Cộng
Sản Liên Sô Mikhail Sergeyevich Gorbachev (1931- ), ta
biết ông này có bố tên là Sergeyev v́ từ
Sergeyevich có nghĩa là con của ông Sergeyev. Ví
dụ khác: Đọc tên ông Pyotr Ivanovich Krylov, ta
biết ông này là con ông Ivan v́ có tiếp vĩ
ngữ Ovich. Nếu ông Ivan có con gái, tên là Nadia
chẳng hạn, tên đầy đủ của cô
sẽ là Nadia Ivanova Krylova. Đọc tên này, ta
biết cô Nadia là con ông Ivan v́ có tiếp vĩ
ngữ Ova.
d. Thứ tư, lấy tên bố rồi thêm
tiếp đầu ngữ làm tên đệm.
Ở Hoa Kỳ và Ái Nhĩ Lan, người ta thêm
tiếp đầu ngữ Fitz vào tên chính của
người cha, làm thành tên đệm của người
con. Đọc tên Tổng Thống Hoa Kỳ John
Fitzgerald Kennedy, ta biết ông này có bố tên là
Gerald v́ Fitzgerald có nghĩa là con ông Gerald. Từ
ngữ Fitz do tiếng Fis trong Pháp ngữ, có nghĩa
là con. Nói chung, người tây phương cũng
áp dụng phương pháp đặt tên để
biểu lộ liên hệ huyết thống gia
đ́nh.
Ngày nay, theo Elsdon C. Smith, hơn 80% dân số Anh
Mỹ có tên đệm và những người không
có tên đệm lại bị rắc rối
đối với các máy điện toán của các
cơ sở tín dụng. Các nhà tính danh học
Mỹ thường nêu trường hợp
Tổng Thống Hoa Kỳ Harry Truman (1884-1972) làm thí
dụ. Ông này không có tên đệm, nhưng công
chúng cứ thắc mắc sao Tổng Thống không
có tên đệm. Biết vậy, Tổng
Thống Truman đă thêm mẫu tự S vào
giữa, thành ra là Harry S Truman. Theo nguyên tắc,
chữ viết tắt S phải có dấu
chấm. Đàng này Tổng Thống không chấm
và ông giải thích mẫu tự S là do chữ
STAND FOR, nghĩa là thay thế, không phải là tên
đệm, nên không có dấu chấm. Trong quân ngũ
Hoa Kỳ, nhiều binh sĩ không có tên đệm,
nên máy điện toán bộ quốc pḥng quy
định chữ N.M.I. nghĩa là No Middle Initial,
dịch ra việt ngữ là không có tên đệm
viết tắt.
3. Đặt Tên Đệm Để Có Âm Thanh
Hài Ḥa: Khi đặt tên cho con, cha mẹ tây phương
rất chú ư đến vấn đề làm sao
chọn được tên mà khi đọc lên
tạo được âm thanh hài ḥa. Người
Hoa Kỳ thường nói: It sounds nice and goes well
with the surname nghĩa là tên này nghe hay, phù hợp
với tên họ. Theo các nhà tính danh học Hoa
Kỳ, nếu ba loại tên: tên chính, tên đệm,
tên họ, tên nào cũng chỉ có một âm
tiết, th́ khi đọc lên sẽ có âm thanh
cụt ngủn, khó nghe. Ví dụ James John Jones (công
thức về âm tiết là 1+1+1) Để tránh t́nh
trạng này, nhà tính danh học Mỹ Elsdon C. Smith
đề nghị như sau:
a. Với tên họ có 1 âm tiết: Tên đệm
và tên chính phải có hai âm tiết, theo công
thức 2+2+1. Ví dụ Edgar Allen Poe, hoặc 3+2+1. Ví
dụ Benjamin Howard Taft, hoặc 3+3+1 như Christopher
Robertson Smith.
b. Với tên họ có 2 âm tiết: Tên đệm
và tên chính phải theo công thức 3+1+2 như
Jacqueline Lee Hunter, hoặc 2+3+2 như Terry Augustus
Lindberg, hoặc 1+2+2 như John Jacob Astor.
c. Với tên họ có 3 âm tiết: Tên đệm
và tên chính phải theo công thức 2+1+3 như
Jason Gibbs McAdoo, hoặc 1+2+3 như John Baldwin Emerson,
hoặc 2+2+3 như Kevin Megan Carpenter.
TIẾT C: NHIỆM VỤ TÊN ĐỆM NGƯỜI
VIỆT NAM
Đối với người Việt Nam, tên
đệm rất quan trọng, nếu đă có,
không thể bỏ đi, v́ có phần vụ rơ ràng.
Phân tích ư hướng dân gian, ta thấy tên đệm
có sáu nhiệm vụ sau đây: (1) Tên đệm
để phân biệt nam nữ, (2) Tên đệm
để phân biệt gia tộc, (3) Tên đệm
để phân biệt nội ngoại, (4)Tên đệm
để phân biệt thứ cấp, (5) Tên đệm
phối hợp với tên họ hay tên chính để
có ư nghĩa rộng hơn, (6) Tên đệm thành
tên chính.
1. Tên Đệm Để Phân Biệt Nam Hay
Nữ: Tại tây phương, đọc tên
một cá nhân, người ta thường
biết được đó là đàn ông hay
đàn bà v́ tên chính đàn bà khác đàn ông. Ngược
lại, tại Việt Nam, gặp tên Minh chẳng
hạn, ta không thể quyết đoán đây là
đàn ông hay đàn bà. Do vậy, dân gian đă có
kiểu thức đặt tên đệm để
phân biệt nam hay nữ.
a. Tên đệm trong tên nữ giới:
Khi Hán tự c̣n phổ thông người ta thường
chọn ba tiếng sau đây để làm tên
đệm cho nữ giới. Đó là Thị,
Diệu, Nữ. Xét về cấu trúc Hán tự,
hai chữ Diệu và Nữ đều có chung
một ngữ căn là chữ Nữ. Riêng
chữ Diệu có nghĩa là đẹp, khéo léo,
một đức tính vốn có của nữ
giới. Trong ba chữ đó, chữ Thị
được sử dụng rất sớm và có
nghĩa là ḍng họ. Sử liệu cho thấy bà
Triệu có tên chính là Triệu Thị Trinh. Nghiên
cứu về chữ Thị, ta thấy dân gian có
hai khuynh hướng: Khuynh hướng chữ Hán
và khuynh hướng chữ Nôm.
Khuynh hướng chữ Hán tức theo tinh
thần Trung Quốc, chữ Thị đi với tên
họ. Ví dụ Cù Thị, người đàn bà
lịch sử thời Lữ Gia, không phải tên
chính là Thị mà chỉ có nghĩa là người
đàn bà họ Cù. Trong các cổ thư như
Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, tên đàn
bà được ghi là Trần Thị, Đặng
Thị. Ngoài dân gian, trên các bia mộ, người
ta thấy: Trần Thị Chi Mộ nghĩa là
mộ phần người đàn bà họ
Trần.
Khuynh hướng chữ Nôm, tức theo tinh
thần Việt Nam, chữ Thị đi với tên
chính. Nhân vật Thị Mầu, Thị Kính trong
truyện Quan Âm Thị Kính là một bằng
chứng cụ thể. Để chỉ người
đàn bà nói chung, dân gian thường nói Thị
Mẹt.
Tại Huế, các gia đ́nh nho gia, học
thức thường dùng chữ Diệu hay Nữ
thay cho chữ Thị. Ngày nay, nhiều gia đ́nh
và chính bản thân người phụ nữ coi
chữ Thị không được ra vẻ
lắm, cho là quê mùa, nên càng ngày càng có khuynh hướng
bỏ hẳn chữ Thị trong tên đàn bà.
Điều này chẳng qua là vấn đề tâm
lư xă hội, v́ bản chất chữ Thị
chẳng có ǵ xấu, chỉ v́ tên người nào
cũng đệm chữ Thị, thành ra chữ
Thị bị mất giá. Một câu hỏi
được đặt ra là tại sao tên đàn
bà Trung Quốc không đệm chữ Thị, mà
tên đàn bà Việt Nam lại luôn luôn đệm
chữ Thị?
Hiện nay chúng tôi chưa có sử liệu nào
để trả lời câu hỏi này. Tuy nhiên,
theo sự suy luận, có lẽ tên người
đàn bà Trung Quốc không đệm chữ
Thị v́ trong tiếng Hán thời Tam Đại,
Thị để chỉ đàn ông và Tính để
chỉ đàn bà. Và khi người con gái đi
lấy chồng, theo phong tục Trung Quốc, bà
sẽ lấy họ chồng rồi đệm
chữ Thị, và được gọi là
Trần Thị phu nhân, Vương Thị phu nhân,
nghĩa là bà vợ ông họ Trần, bà vợ
ông họ Vương. Chữ Thị trong trường
hợp này có nghĩa là họ. Đối với
Việt Nam, khi ư nghĩa chữ Thị đă
bị biến đổi, trở thành tiếng
chỉ đàn bà, th́ các cụ dùng chữ này làm
tên đệm cho nữ giới để phân
biệt nam nữ.
b.Tên đệm trong tên đàn ông:Trong
tên đàn ông Việt Nam, từ ngữ nào cũng
có thể là tên đệm, nhưng nhất định
không bao giờ là chữ Thị. Tiếng thông
dụng nhất là tiếng Văn. Trong khi
tiếng Văn là tiếng độc quyền
của đàn ông Việt Nam th́ tại Trung
Quốc, tiếng Văn cũng được dùng
trong tên đàn bà. Nàng Trác Văn Quân, v́ nghe
nhạc khúc Phụng Cầu Hoàng mà trở thành
người t́nh của Tư Mă Tương Như,
là một ví dụ điển h́nh. Tại sao
từ ngữ Văn lại thông dụng như
vậy? Muốn giải thích vấn đề này,
ta phải trở về với quan niệm phân
chia giai cấp trong xă hội cổ truyền
Việt Nam.
Bốn giai cấp trong xă hội cổ truyền là
sĩ, nông, công, thương. Giai cấp sĩ là
giai cấp cao nhất, được kính
trọng hơn cả. Điều kiện cần
thiết để bước vào giai cấp này là
văn, hiểu một cách rộng răi là phải
có văn chương chữ nghĩa. Do điều
kiện này mà các bậc cha mẹ mong ước
cho con có văn chương chữ nghĩa để
bước vào giai cấp trên. Ước vọng
này thể hiện qua việc đặt chữ văn
trong thành phần tên của con. Chữ văn
trở nên thông dụng đến độ làm
ư nghĩa của nó trở nên mập mờ và
lạm dụng. Ví dụ một ông Trần Văn
Hóa, Nguyễn Văn Minh nào đó lại không
biết đọc, biết viết. Đó là
lời phê b́nh của nhiều nhà tính danh học
Việt Nam. Phê b́nh như vậy là đứng trên
quan điểm của người đă hiểu
ư nghĩa chữ văn để lư luận.
Thực ra, khi xưa, đa số dân gian bị
thất học, không hiểu ư nghĩa chữ Văn,
mà chỉ biết đại khái chữ Văn
chỉ đàn ông, chữ Thị chỉ đàn bà.
Sự hiểu biết này được thể
hiện qua tập tục nói tên. Theo tập
tục này, khi người Việt muốn nói tên
kép của một người nào đó, mà không
biết tên đệm, chỉ biết tên chính,
họ áp dụng ngay nguyên tắc đặt
chữ Văn vào trước tên chính như Văn
Đức, Văn Hiệp. Người nghe mặc
nhiên hiểu đó là ông Đức, ông Hiệp.
Cũng như nói Thị Mẹt, người nghe
mặc nhiên hiểu đó là đàn bà.
Điều đáng chú ư là ngày xưa đa
số người ít học ở nông thôn hay
giới quân nhân thường dùng chữ Văn làm
tên đệm. Bằng chứng là dưới
thời Nguyễn Phúc Ánh đánh Tây Sơn, trong
danh sách 401 binh sĩ được thờ tại
đền Tinh Trung ở phủ Diên Khánh, chúng tôi
đếm được 384 người có tên
đệm Văn, 17 người không đệm
chữ văn. Như vậy tỷ lệ đàn
ông thời xưa đệm chữ văn
chiếm khoảng 96%.
Trái lại, đại đa số giới trí
thức Việt Nam, xưa cũng như nay, đều
không dùng chữ văn. Bằng chứng là đọc
các cổ thư như Đại Việt Sử Kư
Toàn Thư, An Nam Chí Lược, Đại Nam
Liệt Truyện, ta thấy hầu hết các nhân
vật trong các sách trên là các văn quan, đều
không dùng tiếng văn làm tên đệm. Năm
2002, chúng tôi phân tích một danh sách 415 linh
mục trên mạng lưới điện toán
ở địa chỉ www.Vietcatholic
. net. Kết quả cho thấy có 22 trên tổng
số 415 vị là dùng tiếng Văn làm tên
đệm. Nếu định lượng hóa,
tỷ lệ người dùng chữ văn trong
giới trí thức hiện nay là 5%.
2. Tên Đệm Để Phân Biệt Gia
Tộc Hay Chi Họ: Như đă tŕnh bày trong
chương trước, Việt Nam có khoảng
10 họ là phổ thông nhất. Do đó, không
phải bất cứ ai cùng họ cũng đều
từ một ông tổ hay một gia tộc mà ra.
Để tránh ngộ nhận, nhiều gia tộc
dùng tên đệm để phân biệt gia
tộc hoặc chi họ. Theo tác giả Cuisinier, người
Mường tích cực áp dụng tập tục
này. Thí dụ người Mường có các
họ Cao Viết, Đinh Công, Đinh Thế,
Đinh Văn, Quách Ngay, Quách Đ́nh ở Ḥa B́nh,
họ Phạm Bá, Phạm Văn ở Thanh Hóa.
Theo bản tin :”Làng Không Mang Họ” trong báo Gia
Đ́nh và Xă Hội”đăng trên www.vnn.vn, xă Liên
Khê huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên có 13 ḍng
họ trong đó 9 ḍng mang họ Đỗ. Để
phân biệt, họ dùng tên đệm: Đỗ
Trảng, Đỗ Bá, Đỗ Trọng, Đỗ Thúc,
Đỗ Quang v.v..Các vị trưởng tộc cho
rằng Đỗ không phải là tên họ mà các tên
đệm : Trảng, Trọng, Bá, Thúc, Quang v.v…
mới là tên họ. Từ đó các cụ xin
đổi tên họ mới là Trảng, Trọng,
Bá. Thúc.
Theo thiển ư, đây là chuyện hiểu lầm
v́ như chúng tôi đă nói ở phần tên
họ ghép, khi thành lập làng, thường
chỉ có một hai ḍng họ. Đến khi gia
tộc phát triển, các cụ dùng tên đệm
để phân biệt chi phái. Bằng chứng là
các tên đệm: Bá, Trọng, Thúc là các từ
chỉ thứ cấp trong thân tộc. Các cụ cũng
nại ra lư do con gái làng này có tục lệ
lấy tên đệm làm họ, như Trảng
Thị Hoa, Trọng Thị Nhung v.v…Từ đó các
cụ cho rằng từ Trảng mới là tên
họ. Đây lại là chuyện hiểu lầm v́
xưa có quan niệm nữ nhân ngoại tộc.
Tổ tiên làng Liên Khê xưa không để
nữ nhân mang ḍng họ Đỗ mà lấy tên
đệm làm tên họ “tạm” với ư nghĩa
người đàn bà này thuộc chi phái
Trảng, Trọng, Thúc, Bá của ḍng họ Đỗ.
Đối với khối người kinh,
nhiều gia đ́nh cũng áp dụng nguyên
tắc này. Bằng chứng là nhiều gia tộc
khi viết gia phả, đều ghi cả tên
họ và tên đệm như gia phả họ
Trần Đ́nh, gia phả họ Bùi Thái, Hoàng
Ngọc. Vấn đề này đă được
chúng tôi đă tŕnh bày kỹ ở chương
hai, Tiết mục E: Tên Họ Ghép Để
Biểu Lộ Ư Niệm Huyết Thống.
3. Tên Đệm Để Phân Biệt Liên Hệ
Nội Ngoại: Trong xă hội cổ truyền
Việt Nam, người phụ nữ bị coi là
“nữ nhân ngoại tộc”, nghĩa là “con gái
là con người ta” nên không được
đặt tên đệm giống tên của các
anh em trai ruột thịt. Ví dụ điển h́nh
là gia đ́nh của ban hợp ca Thăng Long,
nổi tiếng vào những thập niên 60, 70.
Chỉ tên con trai được đệm
chữ Đ́nh, tên con gái đệm chữ Thị.
Thân phụ ca sĩ Mai Hương là cụ
Phạm Đ́nh Sỹ, sau đó, đến cụ
Phạm Đ́nh Chương, tức Hoài Bắc,
rồi cụ Phạm Đ́nh Viêm, tức Hoài Trung. C̣n
hai chị em gia đ́nh này là các cụ bà
Phạm Thị Thái Hằng, vợ của nhạc
sĩ Phạm Duy, cụ bà Phạm Thị Thái
Thanh, tức ca sĩ Thái Thanh không được
đệm chữ Đ́nh.
Nguyễn Long Thao
|
|