|
[ Trở về ]
Tính danh
học Việt Nam: Tên Họ - Định nghĩa. -------------------------------------------------------------------------------- CHƯƠNG HAI : TÊN HỌ Mục đích nghiên cứu
của chương này là: (a) t́m hiểu nguồn
gốc phát sinh tên họ tại Việt Nam, Trung
Quốc và tây phương, (b) t́m hiểu
những điểm tương đồng và
dị biệt giữa tên họ tây phương và
Việt Nam để từ đó biết
được nguyên tắc chung của nhân
loại trong vấn đề tên họ. Với 2
mục đích này, nội dung chương hai
gồm 3 mục chính: mục một: tên họ
của người Việt Nam, mục hai: tên
họ của người tây phương, mục
ba: so sánh tên họ tây phương với tên
họ Việt Nam và Trung Quốc. MỤC I : TÊN HỌ CỦA NGƯỜI
VIỆT NAM T́m hiểu tên họ Việt Nam,
ta cần hiểu các vấn đề: (a) định
nghĩa tên họ, (b) số tên họ tại
Việt Nam, (c) nguồn gốc tên họ tại
Trung Quốc, (d) nguồn gốc tên họ tại
Việt Nam, (e) các h́nh thức tên họ Việt
Nam, (f) sự biến đổi tên họ. TIẾT A: ĐỊNH NGHĨA TÊN
HỌ Việt ngữ có bốn từ
chỉ tên họ: Tính, Thị, Tộc và Họ.
Trong bốn từ trên, họ là từ Nôm, c̣n ba
từ kia là Hán Việt. Những tiếng ấy
ai cũng hiểu, nhưng cũng nên dựa vào sách
vở để có một định nghĩa rơ
ràng. Việt Nam Tự Điển
của Hội Khai Trí Tiến Đức định
nghĩa Họ: Gia tộc do một ông tổ gây
ra. Trong một họ thường chia ra làm
nhiều chi, họ nội, họ ngoại. Người
cùng gia tộc gọi là người cùng họ. Về chữ Tính, Từ Điển
Hán Việt của Đào Duy Anh định nghĩa
như sau: Tính: họ. Nước ta mỗi người
có mỗi họ như Lê, Nguyễn, Phạm…C̣n
chữ Tính, Thị nghĩa là: Họ. Nước
Tàu, đời Tam Đại, đàn ông xưng là
thị, đàn bà xưng là tính. Ở nước
ta, đàn bà xưng là thị. Cụ Thiều Chửu, trong Hán
Việt Từ Điển, giải thích: Tính:
họ. Con cháu gọi là tử tính, thứ dân
gọi là bách tính. Thị là họ, ngành họ,
tên đời, tên nước đều đệm
chữ thị ở sau như Vô Hoài Thị, Cát
Thiên Thị. Về chữ Tộc, cụ giải
thích: loài giống, ḍng dơi. Con cháu cùng liên
thuộc với nhau gọi là tộc. Cùng một
họ với nhau gọi là tộc. Loài, bụi,
đám, 100 nhà là một tộc. Riêng chữ tính c̣n cho ta biết
thêm chi tiết về lịch sử tên họ
thời cổ đại. Giáo sư Phan Văn Các
ở Viện Hán Nôm tại Việt Nam, dựa vào
Thuyết Văn Giải Tự của Trung
Quốc, giải thích về chữ tính: “Nhân
sinh dĩ vi tính ṭng nữ sinh”. Mọi người
đều biết thời cổ đại xa xưa,
loài người đă trải qua chế độ
thị tộc mẫu hệ, trong đó chế
độ hôn nhân là ngoại tộc quần hôn.
Cả một tốp những người nam
giới cùng lứa tuổi của thị tộc
A được đưa đến thị
tộc B là chồng của cả một tốp
người nữ cùng lứa. Con đẻ ra
tất nhiên không biết bố mà chỉ sống
với mẹ. Đó là nguyên nhân chính dẫn
tới việc tạo ra chữ tính bằng cách
ghép chữ nữ với chữ sinh. Theo cách hiểu phổ thông
của dân gian, tên họ là thành phần đứng
đầu của tên, và nếu định nghĩa
theo chức năng th́ tên họ là tên để
chỉ một gia tộc phụ hệ gồm
những người cùng liên hệ huyết
thống xa gần với nhau. Về cách dùng các từ ngữ trên,
dân gian thường dùng hai từ Tộc và
Thị để viết gia phả: Nguyễn Phước
Tộc Lược Biên,Trần Tộc, Lê Tộc,
Lê Thị Gia Phả. Chữ Tính thường
đi chung với tính danh, bách tính. Như vậy, với Việt
ngữ, Tính, Thị, Tộc có nghĩa là tên
họ, giống như Anh ngữ dùng các từ:
Surname, Last name, Family name để chỉ tên
họ. Ngày mai: Số tên họ tại
Việt Nam Nguyễn Long Thao [ Trở về ] |