TIẾT K : TÊN TÔN GIÁO - Tên Thánh
Tên Của Người Theo Kitô Giáo:
Những người Công Giáo Việt Nam có
một tên thánh được đặt khi
chịu phép rửa tội. Tên thánh c̣n
được gọi là tên bổn mạng.
Giữa tên thánh của người Công Giáo
Việt Nam và tên rửa tội (baptismal name)
hay tên Kitô Giáo (Christian name) của người
tây phương có sự khác biệt nên
cần hiểu ư nghĩa của mỗi bên.
a. Ư nghĩa tên rửa tội hay tên Kitô Giáo
của người Âu Mỹ. Anh ngữ có
3 danh từ để chỉ tên riêng: một
là tên rửa tội (baptismal name), hai là tên
Kitô Giáo (Christian name), ba là tên thứ nhất
hay tên đặt (first or given name). Cả ba
danh từ này đều có nghĩa là tên chính
(first name hay given name). Tên chính của người
tây phương được đặt
trong lễ rửa tội nên gọi là tên
rửa tội. Và tên chính của người
tây phương c̣n gọi là tên Kitô Giáo v́
các nước tây phương chịu
ảnh hưởng văn minh Kitô Giáo, đă
tuân theo lời khuyến cáo của Giáo
Hội Công Giáo, lấy tên các thánh để
đặt tên cho các cá nhân.
Tục lệ lấy tên thánh đặt tên
cho cá nhân đă có từ thời giáo hội
sơ khai. Công đồng Nicaea của Giáo
Hội Công Giáo họp năm 325 cấm
việc dùng tên các thần thánh không phải
của Kitô Giáo để đặt tên.
Đến thời Công Đồng Tridentinô
họp vào năm 1563, Giáo Hội Công Giáo
buộc giáo dân khi đặt tên riêng
phải chọn tên thánh. Công đồng lưu
ư các linh mục là khi làm phép rửa tội,
mà gặp trường hợp cha mẹ
cố t́nh đặt tên không hợp tinh
thần Kitô Giáo, th́ vị linh mục đó
tự động thêm vào một tên thánh, coi
đó là tên thứ hai và ghi vào sổ
rửa tội của giáo xứ.
Theo Bách Khoa Từ Điển Britannica,
quyết định trên của Giáo Hội Công
Giáo nhằm chống lại tục lệ
của Giáo Hội Tin Lành, đặc biệt
của Thanh Giáo cho phép giáo dân nhận tên các
nhân vật trong Cựu Ước làm tên chính,
như các nhân vật Abraham, Samuel, Jacob, Rachel.
Đến bộ giáo luật năm 1917, qua
điều khoản số 761, Giáo Hội
nhắc lại khoản luật cũ từ
thời Công Đồng Tridentinô. Đến
bộ giáo luật mới ban hành năm 1983,
người ta không thấy có điều
khoản nào buộc người Công Giáo
phải lấy tên thánh, mà chỉ quy định
tên riêng của người ấy phải phù
hợp với ư nghĩa Kitô Giáo. Điều
855 của bộ giáo luật quy định:
Cha mẹ, người đỡ đầu
và Cha Sở phải lo liệu để đừng
đặt một tên không hợp với ư
nghĩa Kitô Giáo.
Tại sao Giáo Hội Công Giáo từ lúc sơ
khai đến nay đă quyết định
lấy tên các thánh để đặt tên
cho các tín hữu? Giáo Hội đưa ra
quyết định trên v́ 2 lư do:
Thứ nhất, giáo hội tiếp
tục duy tŕ truyền thống của giáo dân
thời sơ khai. Những giáo dân đầu
tiên là dân nô lệ, không phải công dân La Mă
và theo tục lệ, mỗi khi người nô
lệ được giải phóng, trở thành
công dân La Mă, th́ họ lấy tên chủ nhân
thuộc giai cấp quư tộc làm tên ḿnh. Tuy
nhiên, với tín đồ Kitô Giáo thời
đó, họ không thiết tha với các tên
của các ông chủ cũ v́ họ là
nạn nhân của giai cấp quư tộc trong
các cuộc cấm đạo. Đồng
thời khi một quư tộc trả tự do
cho hàng trăm người nô lệ th́ hàng
trăm người đó có cùng tên với
chủ nô lệ cũ. Kết quả là
tập tục này không đáp ứng
được nhu cầu phân biệt nên các
người nô lệ được giải
phóng lấy tên những người mà giáo
hội Kitô Giáo nhận là thánh để
đặt tên cho ḿnh. Ví dụ: Thimotheus,
Stephanos, Laurentius là các vị thánh đầu
tiên. Đang khi Kitô Giáo phát triển, lan tràn
cả Âu Châu th́ đế quốc La Mă bước
vào giai đoạn suy tàn. Hệ thống tên
của La Mă mai một đi, tên thánh trở
nên phổ thông hơn.
Thứ hai, Giáo Hội Công Giáo muốn tôn
trọng phẩm giá con người. Khi xưa
số tên người Âu Châu c̣n ít, hệ
thống tên họ chưa xuất hiện, th́
để phân biệt các cá nhân, người
Âu thường dùng tên mà người Anh
Mỹ gọi là Nickname, người La Mă
gọi là Agnomen, c̣n ta gọi là tên lóng. Khi xưa
tên lóng rất phổ biến ở La Mă, Hy
Lạp và có nghĩa là tên thêm vào tên chính.
Tên lóng thường có ư nghĩa rất tiêu
cực, tương đương như tên
tục của người Việt Nam. Ví
dụ các tên như Crassus nghĩa là người
béo, Varus: người què, Baldie hay Calvin: người
trọc đầu, Cecil: người mù, Claude
hay Gladys: người què. V́ tên có nội dung
hạ thấp phẩm giá con người, nên
giáo hội đă ban hành luật buộc các
linh mục khi làm phép rửa tội, gặp các
trường hợp tên có ư nghĩa tiêu
cực, phải lấy một tên thánh đặt
thêm vào.
Ngày nay, giáo dân Việt Nam cũng như giáo
dân ở nhiều nơi trên thế giới
vẫn nhận tên thánh v́ c̣n giữ tinh
thần bộ giáo luật cũ. Tên thánh có
thể được thay đổi khi
chịu phép thêm sức.
Theo giáo huấn của giáo hội, việc tín
hữu nhận một tên thánh nhằm hai
mục đích: thứ nhất, để người
đó bắt chước gương sáng thánh
bổn mạng mà sống cuộc đời
đạo đức thánh thiện; thứ
hai, để tín hữu đó được
phù trợ nhờ lời cầu bầu
của thánh bổn mạng. Hai mục đích
trên được minh thị qua điều
khoản giáo luật số 1186:
Với mục đích cổ vơ việc nên
thánh của dân Chúa, Giáo Hội khuyến khích
mọi tín hữu, lấy t́nh con cái, tôn kính
đặc biệt Đức Maria hồng phúc
trọn đời đồng trinh, Mẹ Thiên
Chúa đă được Đức Kitô
đặt làm Mẹ của loài người,
cũng vậy, Giáo Hội cổ động
ḷng tôn kính chân chính và thành thực đối
với các thánh, v́ lẽ các tín hữu
được kiên vững nhờ gương
sáng và được nâng đỡ bởi
lời bầu cử của các ngài.
b. Ư nghĩa tên thánh đối với người
Công Giáo Việt Nam. Thực ra, tên mà người
Việt Nam gọi là tên thánh th́ tại các nước
tây phương, chịu ảnh hưởng
Kitô Giáo, gọi là tên rửa tội (Baptismal
name) hay tên chính do bố mẹ đặt.
Sở dĩ người Công Giáo Việt Nam,
Đại Hàn, Nhật Bản, Trung Hoa, Phi Châu có
thêm tên thánh mà người tây phương
không có, là v́ các giáo sĩ tây phương
đến Việt Nam cũng như các nơi
khác truyền đạo, đă áp dụng
tinh thần giáo luật, đặt tên thánh
cho giáo dân như đă làm cho giáo dân ở tây
phương.
Trái lại, đọc tiểu sử hàng giáo
phẩm Công Giáo tây phương, ta không
thấy vị nào có hẳn một tên thánh
riêng biệt như kiểu tên người Công
Giáo Việt Nam. Nơi tôi đang cư
ngụ là San Jose, California có hai vị Giám
Mục là Pierre DuMaine và Patrick J. McGrath. Tên
Pierre và Patrick vừa là tên chính, vừa là tên
thánh. DuMaine, McGrath là tên họ. Tuy nhiên, cũng
tại đây, có linh mục Kevin Joyce. Kevin là
biến thể của tên Kelvin. Kelvin là tên
con sông ở Tô Cách Lan. Linh mục Kevin Joyce không
có tên thánh.
Vậy quyết định trên của các giáo
sĩ thừa sai đối với dân
Việt Nam là đúng hay sai? Nếu đặt
vào bối cảnh hiện nay th́ đó là
điều không thể chấp nhận
được v́ tên người Việt Nam
hiện nay không hề được đặt
ra để hạ phẩm giá con người
như kiểu người Hy Lạp, La Mă ngày
xưa. Tuy nhiên, nếu đặt vào bối
cảnh Việt Nam trong thế kỷ 16 th́
quyết định của các thừa sai có
thể tạm chấp nhận v́ phong tục
dân gian lúc đó c̣n dùng những tên tục
tĩu đặt cho những đứa
trẻ mới sinh để tránh tà ma.
Loại tên này gọi là tên tục mà chúng tôi
đă tŕnh bày trong cùng chương này.
Hiện nay, người Công Giáo Việt Nam thường
chọn tên các thánh nam giới cho phái nam và các
thánh nữ giới cho phái nữ. Ngoài ra, v́
sự hiểu biết của giáo dân c̣n
hạn chế về số các thánh được
giáo hội công nhận, nên người ta thường
chọn các thánh thời Chúa Giêsu như Phêrô,
Phaolô, Gioan, Maria, Anna làm tên thánh cho ḿnh. Ngày
nay, Giáo Hội Việt Nam có 118 vị thánh
tử đạo. Tuy nhiên, giáo dân Việt
vẫn chưa quen nhận tên các thánh
Việt Nam làm bổn mạng. Người Công
Giáo có tục mừng ngày lễ bổn
mạng là ngày mà toàn thể Giáo Hội Công
Giáo trên thế giới tưởng nhớ
tới vị thánh đó. Khi chết, người
Công Giáo không dùng tên húy hay tên riêng mà dùng tên
thánh để cầu nguyện cho người
quá cố. Như vậy, xét về mặt
bản chất, tên thánh cũng có chức năng
như tên thụy, tên hèm hay tên cúng cơm là
các tên để người sống nhắc
đến, cầu nguyện cho người
đă chết.
|