MỤC II: DANH XƯNG ĐẶC BIỆT
CỦA THƯỜNG DÂN VIỆT NAM
Muốn chỉ một cá nhân nào đó, tùy
theo giai cấp, tín ngưỡng, tùy theo lúc
sống hay chết, tùy theo già hay trẻ, người
Việt Nam có rất nhiều tên để
gọi. Ngôn ngữ Việt có những từ
sau đây chỉ các loại tên: bí danh, bút
hiệu, nhũ danh, nghệ danh, pháp danh, pháp
tự, pháp hiệu, tên, tên cái, tên đệm,
tên họ, tên gọi, tên chữ, tên cúng cơm,
tên hèm, tên hiệu, tên húy, tên riêng, tên thánh,
tên thụy, tên tục, tên tự, thương
hiệu.
Không kể tên họ, tên riêng, người
Việt có thể có một trong những tên
dưới đây mà chúng tôi gọi là danh xưng
đặc biệt. Sở dĩ gọi là
đặc biệt v́ không phải ai cũng có.
Trong mục này, các danh xưng đặc
biệt sẽ được lần lượt
nghiên cứu qua các tiết: (a)) tên tục,
(b) tên tước, (c) tên tự, (d) tên
hiệu, (e) bút hiệu, (f) nghệ danh, (g) thương
hiệu, (h) bí danh, (i) tên thụy, (k) tên tôn
giáo. Trong phần tên tôn giáo sẽ nói đến
pháp danh, pháp hiệu của người
Phật Giáo Tiểu Thừa và Phật Giáo Đại
Thừa, tên các vị chức sắc Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, và tên
thánh của người Công Giáo.
TIẾT A: TÊN TỤC
1. Định Nghĩa Tên Tục: Theo
định nghĩa của Đại Từ
Điển Tiếng Việt, tên tục là tên
do cha mẹ đặt lúc mới sinh, chỉ
gọi lúc c̣n bé, thường dùng từ Nôm
và xấu để tránh sự chú ư, đe
dọa của ma quỷ.
2. Tên Tục - Nhũ Danh - Tiểu Danh: Tên
mà người Việt gọi là tên tục
th́ người Trung Quốc gọi là
tiểu danh hay nhũ danh, được đặt
lúc đứa bé mới sinh và cũng có ư
nghĩa xấu. Gọi là nhũ danh v́ tên này
được đặt lúc đang bú. Trong
tiếng Hán, nhũ có nghĩa là vú nên các nhà
tính danh học Mỹ dịch chữ nhũ
danh là Milk Name (tên sữa). Theo Elsdon C. Smith,
tiểu danh hay nhũ danh chỉ có một
từ, nhưng được thêm âm A vào
đàng trước. Ví dụ A Man là tiểu
danh của Tào Tháo, và A Đẩu là tiểu
danh của Lưu Thiện, con của Lưu
Bị. Khi lớn lên, người Trung
Quốc không dùng tiểu danh hay nhũ danh
nữa. Và lúc này, ai dùng tên đó để
gọi, th́ đó là một điều
sỉ nhục cho người ấy. Đọc
Tam Quốc Chí, mỗi lần Lưu Bị hay
Tôn Quyền tức tối ǵ với Tào Tháo,
ta thấy hai đối thủ này thường
lôi tiểu danh Tào Tháo ra chửi: “thằng
nhăi con Tào A Man”. Man trong tiếng Hán có nghĩa
là gian xảo, quỷ quyệt.
Ngày nay, trong các bản tin cáo phó cho một người
đàn bà, người ta thường
viết nhũ danh là. ..Từ nhũ danh ở
đây được hiểu là tên của
người đàn bà khi chưa lấy
chồng. Tục lệ này sai với ư nghĩa
nguyên thủy của nhũ danh.
3. Nguyên Nhân Đặt Tên Tục: Đối
với người Việt, khi xưa có
nạn trẻ chết yểu và người
ta giải thích v́ tà ma thích bắt những
đứa trẻ đẹp. Do vậy, các
cha mẹ không muốn ai khen con ḿnh đẹp,
sợ tà ma biết, đồng thời đặt
tên xấu cho đứa trẻ nhằm đánh
lừa tà ma. Sở dĩ gọi là tên
tục v́ dùng các từ có ư nghĩa tục
tằn như bộ phận sinh dục,
chỉ sự dơ bẩn, hay là tên loài
vật.
Tên tục tĩu: thằng Cu, con Đĩ, cái
Hến, cái Hĩm, thằng C̣, thằng Gái
Tên dơ bẩn xấu xí: Bùn, Sẹo. Què
v.v…
Tên súc vật: Muông, Cầy, Cáo, Cún,Vện,
Đực v.v…
Trường hợp đẻ nhiều mà
vẫn bị chết yểu, th́ đứa
con mới sinh được đặt là
Xin, với ư nghĩa đây là đứa con
xin về nuôi, hay đứa con của kẻ
ăn mày, ăn xin. Người Trung Quốc có
tục đặt tên con trai là Xẩm.
Xẩm có nghĩa là người đàn bà.
Tất cả những cách thức chọn
lựa đó, chỉ nhằm mục đích
đánh lừa tà ma.
Khi đứa trẻ lên khoảng 5 đến
10 tuổi, nghĩa là hầu như thoát
khỏi giai đoạn mà dân gian tin là bị
tà ma chú ư, th́ cha mẹ bắt đầu
đặt tên chính thức cho con. Lúc này ai
nhắc đến, hoặc gọi tên tục
người đó, là xúc phạm đến
danh dự của người ấy. Trong các
đám căi nhau liên quan đến vấn đề
tên tục, Đại Từ Điển
Tiếng Việt nêu ra thí dụ: Cứ
gọi tên tục ra mà chửi, ai mà chẳng
tức.
Lệ đặt tên tục rất phổ
biến trong xă hội cổ truyền
Việt Nam. Tuy nhiên, lệ này dần dần
biến mất khi tŕnh độ tri thức
khoa học của dân Việt được
nâng cao. Một lư do khác nữa làm loại tên
này biến mất là dưới thời Pháp
thuộc, chính quyền buộc cha mẹ làm
ngay giấy khai sinh cho trẻ sơ sinh. Tuy nhiên,
trong thực tế, tên tục vẫn tồn
tại và chỉ biến mất ở nông thôn
Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ
20.
Tục lệ đặt tên xấu không
chỉ có trong các nước chịu ảnh
hưởng văn hóa Trung Quốc như
Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam mà
thấy ở nhiều nơi trên thế
giới. Các sắc dân thiểu số ở
Indonesia, Lào, Thái Lan, Miến Điện, và các
dân tộc vùng Đông Nam Á đều có
tục lệ này. Theo bách khoa từ điển
Britannica, th́ tục lệ này thấy có
ở Hy Lạp, các nước Phi Châu chung
quanh sa mạc Sahara.
Khi đến tuổi trưởng thành,
nếu có một vị thế quan trọng
trong xă hộị cổ truyền, người
Việt có một tên khác nữa. Đó là tên
Tước.
Ngày mai : T́m hiểu tên tước. |