TIẾT D: TÊN HIỆU
1. Định Nghĩa Tên Hiệu: Theo
định nghĩa của học giả Trung
Quốc Sheau Yueh J. Chao, tên hiệu hay biệt
hiệu là tên của nhà nho dùng để ghi
dấu nơi chốn một người
được giáo dục về mặt tri
thức và đạo đức, đồng
thời là nơi dùng để sáng tác hay biên
soạn các tác phẩm văn chương,
học thuật. Ngoài ra, các nhà nho cũng dùng
tên hiệu để biểu lộ lư tưởng,
đức tính, ư muốn, sở thích của
ḿnh.
2. Nguồn Gốc Tên Hiệu: Tên
hiệu có tại Trung Quốc vào thời nhà
Chu, nhưng tại Việt Nam, người ta
chưa biết văn thi sĩ nào là người
đầu tiên đặt tên hiệu cho ḿnh.
Lịch sử có nói đến các ông Trương
Trọng, Lư Tiến, Lư Cầm là các du
học sinh đi Trung Quốc dưới
thời Hán, và Khương Công Phụ dưới
thời Đường. Nhưng không thấy
sử sách nào nói các ông này có tên hiệu là
ǵ. Măi đến thời nhà Trần, khi
nền Hán học được khá phổ
biến, đă có những văn thi sĩ, th́
lúc ấy mới thấy một Nguyễn
Trung Ngạn (1289-1370) có tên hiệu là
Giới Hiên, một Trương Hán Siêu
(?-1354) là Thăng Am.
3. H́nh Thức Tên Hiệu: Phân tích tên
hiệu của nho sĩ Việt Nam, ta có
thể chia làm ba loại.
a. Tên hiệu chỉ nơi sinh hoạt trí
thức. Tên loại này có hai chữ.
Chữ đầu để diễn tả
tinh thần hay khung cảnh làm việc.
Chữ thứ hai chỉ nơi chốn làm
việc. Để chỉ nơi chốn, các
cụ thường dùng các chữ: Trai, Hiên,
Am, Đường, Vân.
b. Tên hiệu chỉ nơi sinh quán. Tên
loại này thường có tên làng xă hay tên
sông núi nơi quê hương các cụ.
c. Tên hiệu để chỉ đức tính
hay triết lư sống. Dù tên hiệu
thuộc loại nào, các cụ bao giờ cũng
cố gói ghém vào đó một lư tưởng
đạo đức.
4. Phương Pháp Đặt Tên Hiệu
Để Chỉ Nơi Đọc Sách: Nếu
tên hiệu để chỉ nơi đọc
sách hay sinh hoạt trí thức, các cụ áp
dụng 5 cách sau đây.
a. Đặt tên hiệu với từ
ngữ Trai: Trong Hán tự, chữ trai do
tiếng trai pḥng, thư trai, hay trai xá.
Tất cả đều có nghĩa là nơi
đọc sách hay thư viện. Nhiều
bậc danh nho Việt Nam đă dùng từ trai
để làm thành phần cho tên hiệu. Xin
đan cử một số ví dụ:
Tên / Tên Hiệu / Ư Nghĩa
Phạm Sư Mạnh (thế kỷ 14) / Úy
Trai / Pḥng đóng kín
Lư Văn Phức (1785-1849) / Khắc Trai / Pḥng
nghiêm trang
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) / Ngộ Trai / Pḥng
mở trí tuệ
Nguyễn Quư Tân (1811-1858) / Đĩnh Trai / Pḥng
tập tính ngay thẳng.
Nguyễn Trăi ( 1380-1442) / Ức Trai / Pḥng suy tư
Phùng Khắc Khoan (1528-1613)/ Nghị Trai / Pḥng
bàn luận
Hoàng Diệu ( 1828-1882) / Tĩnh Trai /Pḥng yên
lặng
Phạm Quư Thích (1760-1825) / Lập Trai / Pḥng
lập thân
Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867)/ Tĩnh Trai / Pḥng yên
lặng
b. Đặt tên hiệu với từ Hiên:
Theo Từ Điển Hán Việt của ban Tu
Thư Nghĩa Thục th́ hiên là ngôi nhà
nhỏ hoặc hành lang có cửa sổ dùng
để làm thư pḥng hay uống trà. Các
danh nho xưa dùng từ hiên để làm thành
phần tên hiệu của ḿnh. Xin nêu các thí
dụ sau:
Tên / Tên Hiệu / Ư Nghĩa
Nguyễn Trung Ngạn /Giới Hiên / Hiên nhà
giới luật.
Lương Thế Vinh ( ? ) / Thụy Hiên / Hiên
nhà quư giá
Nguyễn Nghiễm (1708-1775)/ Nghị Hiên / Hiên
nhà bàn luận
Nguyễn Du (1765-1820) / Thanh Hiên / Hiên nhà thanh
cao
Vũ Cán ( 1475- ?) / Tùng Hiên / Hiên nhà cây thông
(tượng trưng người quân tử)
Phan Huy Uông ( ? ) / Nhă Hiên / Hiên nhà thanh cao
c. Đặt tên hiệu với từ Am:
Am là lều tranh hay chùa nhỏ. Các nhà nho dùng
từ này làm thành phần tên hiệu cho ḿnh
với ngụ ư nơi sinh hoạt trí
thức đơn sơ, nghèo nàn.
Tên / Tên Hiệu / Ư Nghĩa
Nguyễn Cư Trinh (1716-1767) / Đạm Am / Nơi
đạm bạc
Nguyễn Thông (1827-1894) / Độn Am / Nơi
suy nghĩ
Lư Tử Tấn (1378-1457) / Chuyết Am / Nơi
dừng chân
Phan Huy Ôn (1755-1786) / Chỉ Am / Nơi đạt
lư tưởng
Trần Danh Án ( ?) / Liễu Am / Nơi hiểu
rơ
Bùi Huy Bích (1741-1818) / Tồn Am / Nơi giữ
thiên tính
Nguyễn Thiếp (?) / Hạnh Am / Nơi
giữ đức tính
Trương Hán Siêu ( ? -1345) / Thăng Am / Nơi
tiến cao hơn
Nguyễn Công Hăn (1680-1732) / Tĩnh Am / Nơi
yên lặng
d. Đặt tên hiệu với từ Đường:
Đường có nghĩa là nhà chính trong
cung thất. Các nhà nho chọn loại tên
hiệu này để biểu lộ đức
tính:
Tên / Tên Hiệu / Ư Nghĩa
Lê Quư Đôn (1726-1784) / Quế Đường /
Nhà hương thơm
Phạm Quư Thích (1760-1825) / Thảo Đường
Cư Sĩ / Nhà lợp cỏ của cư sĩ
Phạm Phú Thứ / Trúc Đường / Nhà
người quân tử (trúc tượng trưng
người quân tử)
e. Đặt tên hiệu với từ Vân:
Ngày xưa, người Trung Quốc dùng
một thứ cỏ gọi là vân để
kẹp trong sách, cho sách khỏi bị con
nhậy cắn phá. Do đó, sách c̣n
được người Trung Quốc
gọi là vân biên, thư viện là vân đài
hay vân thự, cửa sổ thư viện
gọi là vân song. Các nhà nho dùng từ vân
trong tên hiệu để chỉ nơi đọc
sách như các từ am, hiên, trai, đường.
Tất cả đều biểu lộ tâm tính
thích đọc hay viết sách của các
cụ. Cụ Chu Mạnh Trinh (1862-1905) có
hiệu là Trúc Vân. Trúc Vân nghĩa là nơi
đọc sách của bậc hiền nhân v́
trúc trong nghệ thuật Trung Quốc tượng
trưng cho người quân tử.
5. Đặt Tên Hiệu Để Chỉ Nơi
Sinh Quán: Lấy địa danh làm tên
hiệu có hai cách. Cách thứ nhất là
lấy tên quê quán hay tên làng. Cách thứ hai
lấy tên núi non, sông hồ nơi sinh quán
để làm tên hiệu:
a. Lấy tên quê quán làm tên hiệu: Người
Trung Quốc cũng như Việt Nam đều
có tâm t́nh rất gắn bó với quê cha
đất tổ, được biểu
lộ trong phong tục lấy tên quê quán làm
tên hiệu: Xin đan cử một vài ví
dụ: Tại Trung Quốc, chính trị gia Tôn
Văn là người ở huyện Trung Sơn
nên ông lấy tên hiệu là Trung Sơn. Nhà
chủ trương dân chủ Khang Hữu Vi
lấy hiệu là Nam Hải v́ quê quán ông
ở Nam Hải.
Tại Việt Nam, thân phụ chiến lược
gia Nguyễn Trăi là Nguyễn Phi Khanh (thế
kỷ14) có tên hiệu là Nhị Khê v́ ông cư
ngụ tại làng Nhị Khê, phủ Thường
Tín, Hà Đông. Tác giả bộ Đại
Nam Quốc Sử Diễn Ca là cụ Phạm
Đ́nh Toái có tên hiệu là Song Quỳnh v́
cụ người xă Quỳnh Đôi,
huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Học giả Phạm Quỳnh (1892-1945), ngoài
tên hiệu Thượng Chi, c̣n có tên
Hồng Nhân v́ chánh quán ở làng Thượng
Hồng, Hải Dương.
b. Lấy tên sông núi làm tên hiệu: Theo
quan niệm triết lư Lăo Trang, người xưa
tin rằng: Nhân giả nhạo sơn, trí
giả nhạo thủy, nghĩa là người
có ḷng nhân thích núi, người có tri
thức thích nước. Do vậy, giới
nho sĩ rất thích dùng tên núi non, sông nước
để biểu lộ nhân cách, tư tưởng
của ḿnh. Tên hiệu loại này, nếu
chỉ sông, có từ Giang hay Xuyên. Nếu
chỉ núi có từ Sơn. Các cụ tin
rằng chính sông núi đă hun đúc nên con
người và tài năng các cụ. Thi sĩ
Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) dùng bốn
câu thơ sau đây giải thích lư do tại
sao ông chọn tên hiệu Tản Đà:
Vùng đất Sơn Tây nẩy một ông
Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng
Sông Đà núi Tản ai hun đúc
Bút thánh câu thần sớm văi vung.
Cụ Nguyễn Du lấy tên hiệu là
Hồng Sơn Liệp Hộ v́ quê ông ở
Tiên Điền, Hà Tĩnh có dẫy núi
Hồng Lĩnh. Xin đan cử các nho sĩ
lấy tên hiệu với từ Sơn:
Tên / Tên Hiệu
Nguyễn Khuyến (1835-1909) / Quế Sơn
Nguyễn Thượng Hiền (1868-1926) / Mai Sơn
Tùng Thiện Vương (1819-1870) / Thương
Sơn
Đỗ Cận (thế kỷ 15) / Phổ Sơn
Đặng Nguyên Cẩn (1876-1922) / Thái Sơn
Các nho sĩ lấy tên hiệu với từ:
Xuyên, Giang, có nghĩa là sông như nhà thơ
trào phúng Trần Tế Xương lấy
hiệu là Vị Xuyên v́ quê ông ở gần
sông Vị. C̣n từ Xuyên có nghĩa là sông.
Thi sĩ Lâm Tấn Phác (1906- 1969) lấy
hiệu là Đông Hồ v́ quê ông ở Hà
Tiên có hồ nước tên là Đông
Hồ. Ngoài ra ta có thể kể thêm một
số ví dụ:
Tên / Tên Hiệu
Hoàng Cao Khải ( 1850-1933) / Thái Xuyên
Phan Thanh Giản ( 1796-1867) / Mai Xuyên
Nguyễn Thống (1827-1894) / Kỳ Xuyên
Nguyễn Tri Phương (? -1873) / Đường
Xuyên
Ngô Đức Kế (1878-1929) / Tập Xuyên
Nguyễn Văn Lạc (1842-1915) / Sầm Giang
Nguyễn Thiên Tùng (?) / Đức Giang
Trần Quư Cáp (1871-1908) / Thái Xuyên
6. Phương Pháp Đặt Tên Hiệu
Để Diễn Tả Đức Tính Hay
Triết Lư Sống: Tư tưởng Lăo
Trang ảnh hưởng rất rơ tới
tầng lớp sĩ phu Việt Nam qua việc
lấy tên hiệu. Để biểu lộ tư
tưởng triết học này, các cụ xa
tránh công danh, t́m vui thú nơi điền viên
thôn dă. Tiêu biểu là: cụ Chu Văn An (
?-1370) lấy hiệu là Tiều Ẩn, nghĩa
là người kiếm củi ở ẩn. Ông
Nguyễn Quư Tân (1814-1858) đỗ Tiến Sĩ
đời Thiệu Trị, lấy tên
hiệu là Túy Tiên, tức ông tiên say. Cụ
Phạm Đ́nh Hổ (1768-1839), tác giả Vũ
Trung Tùy Bút, lấy hiệu là Đông Dă
Tiều, nghĩa là người kiếm
củi ở cánh đồng phía đông. Nhà
danh y Việt Nam ở cuối thế kỷ 18
là Lê Hữu Huân (Quân) hay Lê Hữu Trác có tên
hiệu Hải Thượng Lăn Ông, nghĩa là
ông già lười biếng ở trên
biển. Chữ Hải Thượng có nghĩa
là trên biển, nhưng đồng thời là
tên quê quán. Nguyên quán của ông ở
trấn Hải Dương, làng Thượng
Hồng. C̣n chữ Lăn có trong câu thơ
của ông: “Thiện diệc lăn vi hà huông
ác; Qúi do bất nguyện khởi ưu
bần”Nghĩa là Lành cũng biếng làm
huống chi kẻ dữ; Sang c̣n không thích há
lo nghèo. Cụ Nguyễn Đôn Phục (1878-
?) bỉnh bút của Nam Phong Tạp Chí
lấy tên hiệu là Tùng Vân Đạo Nhân,
nghĩa là người tu tiên để tâm
hồn bay theo mây gió.
7. Áp Dụng Phương Pháp Đặt Tên
Tự Để Đặt Tên Hiệu: Như
đă nói trong phần tên tự, giới nho sĩ
ngày xưa áp dụng nguyên tắc dùng
tiếng đồng nghĩa, điển tích
hay từ ngữ trong cổ thư để
đặt tên tự. Trong việc đặt
tên hiệu, các cụ cũng áp dụng nguyên
tắc này để đặt tên hiệu.
Xin liệt kê ba nguyên tắc sau:
a. Dùng tiếng đồng nghĩa với tên
chánh để đặt tên hiệu: Ta có
thể nêu ra các thí dụ điển h́nh sau
đây: Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm
có tên hiệu là Ban Tang. Hai chữ Điểm
và Ban đồng nghĩa. Điểm nghĩa
là chấm nhỏ, Ban có nghĩa là lốm
đốm, c̣n Tang là dấu vết. Cụ Trương
Hán Siêu có tên tự là Thăng Phủ, tên
hiệu là Thăng Am. Từ ngữ Siêu và Thăng
đều có nghĩa là vượt lên trên
chỗ cao hơn. C̣n từ ngữ Phủ
chỉ sự tôn kính, chữ Am chỉ nơi
sinh hoạt trí thức của cụ.
b. Dùng câu văn trong cổ thư để
đặt tên hiệu: Ta có thể nêu các
thí dụ sau: Cụ Nguyễn Cư Trinh
(1716-1767), tác giả chuyện Săi Văi, lấy
tên hiệu là Đạm Am. Chữ Đạm
có trong câu của Khổng Minh dậy con:
Đạm Bạc Dĩ Minh Chí, nghĩa là dùng
cách sống đạm bạc để
tỏ chí khí ḿnh. Học giả Phạm
Quỳnh (1892-1945) lấy tên hiệu là Thượng
Chi. Cụ lấy tên này từ một câu
trong Kinh Thi có tên chính của cụ: Thượng
Chi Dĩ Quỳnh Hoa Hồ Nhi, nghĩa là
để thêm vào đồ trang sức th́
lấy hoa quỳnh mà thêm vào. Giáo sư Nghiêm
Toản, trưởng ban Hán Văn của
Đại Học Văn Khoa Sàig̣n, có tên
hiệu là Hạo Nhiên. Hai từ này
được trích trong câu của Mạnh
Tử: Ngă Thiện Dưỡng Ngô Hạo Nhiên
Chi Khí, nghĩa là ta phải nuôi cái chí khí chính
đại.
c. Dùng điển tích để đặt
tên hiệu: Ta có thể nêu các thí dụ
sau: nhà cách mạng Phan Bội Châu (1867-1940)
lấy tên hiệu là Sào Nam. Hai từ này rút
ra trong điển tích Việt Điểu Sào
Nam Chi, nghĩa là con chim Việt làm tổ
ở cành phía nam. Cụ lấy tên này để
biểu lộ lư tưởng lúc nào cũng
hoài niệm tới tổ quốc. Học
giả Nguyễn Văn Toán, tác giả
nhiều bộ sách về phong tục, có tên
hiệu là Toan Ánh. Toan là nghèo khổ, Ánh là
ánh sáng. Tên Toan Ánh lấy từ điển
tích Ánh Tuyết Độc Thư. Theo tích này,
Tôn Khang, đời Tấn, nhà nghèo, không có
đèn, phải nhờ ánh sáng phản
chiếu của tuyết mà đọc sách.
Chuyện trên ngụ ư nói có khắc khổ
chăm học mới thành tài. Học giả
Nguyễn Văn Toán đă kư thác hoàn
cảnh ḿnh qua tên hiệu Toan Ánh.
Khi nho học tàn lụi dần, nhường
chỗ cho nền văn hóa tây phương th́
tên hiệu của tầng lớp sĩ phu cũng
biến mất. Thay vào đó, xuất
hiện một loại tên mới trong
giới trí thức Việt Nam, đó là bút
hiệu.
Ngày mai: Bút Hiệu |