TIẾT C: NGUỒN GỐC TÊN HỌ TRUNG
QUỐC
Các ḍng họ Việt Nam mà dân gian gọi là
bách tính xuất phát do đâu và có tự bao
giờ ? Để trả lời câu hỏi này,
ta phải t́m hiểu nguồn gốc tên
họ Trung Quốc v́ hệ thống tên
họ của ta chịu ảnh hưởng
hệ thống tên họ của Tàu.
Trung Quốc là nước đầu tiên trên
thế giới biết đến hệ
thống tên họ. Theo truyền thuyết, vua
Phục Hy (2737-2852 TCN) đă lập ra hệ
thống tên họ và buộc người dân
phải có họ để phân biệt các
gia tộc, đồng thời để ngăn
ngừa người cùng gia tộc lấy
nhau. Từ Phục Hy đến đời nhà
Chu, dân Trung Quốc có hai hệ thống
được dùng song hành: tính và thị. Ngày
nay, tính hay thị đều được
hiểu là tên họ, nhưng ngày xưa, tính
và thị được hiểu khác nhau.
1. Hệ Thống Tính: Theo tác giả
Sheau Yueh J. Chao, khi xă hội Trung Quốc c̣n
trong thời kỳ mẫu hệ, nền kinh
tế c̣n ở thời kỳ hái lượm,
th́ hệ thống tính được dùng trước
hệ thống thị. Tên họ, tức tính
lúc đó để chỉ nguồn gốc
một người được sinh ra do người
đàn bà nào. Do vậy, chữ tính trong Hán
tự được viết với chữ
nữ và chữ sinh. Chứng tích của
hệ thống này c̣n lại tới ngày nay là
các tên họ được viết với
bộ chữ nữ. Ví dụ: họ Khương,
họ Cơ, họ Doăn, họ Từ.
2. Hệ Thống Thị: Khi chế độ
vương quyền được thành
lập tại Trung Quốc th́ hệ thống
thứ hai xuất hiện. Thị trước
hết để chỉ tên thị tộc. Vào
thời gian này, tên thị tộc đă có
đặc tính cha truyền con nối, nhưng
thị chưa biến thành tên họ v́
mới chỉ lưu truyền trong hoàng
tộc.
Đến thời Chiến Quốc (475-221), xă
hội Trung Quốc chia thành nhiều tiểu
quốc, các nhà lănh đạo và dân chúng
mỗi tiểu quốc lấy tên đất
làm tên họ. Đồng thời, nền kinh
tế nông nghiệp phát triển, vai tṛ người
đàn ông trở nên quan trọng, do đó
thị chiếm ưu thế và bắt đầu
trở thành tên họ.
Đến khi Tần Thủy Hoàng (221-206 TCN)
thống nhất đất nước,
quyền lực các tiểu quốc không c̣n,
kinh tế Trung Quốc phát triển, con người
bắt đầu định canh, định
cư, và nhu cầu kế thừa tài sản
trở nên quan trọng, th́ hai hệ thống
tính và thị trở nên đồng nhất.
Lúc này tính hay thị cũng chỉ có nghĩa
là tên họ.
3. Các Nguồn Gốc Phát Sinh Tên Họ
Tại Trung Quốc: Theo tác giả Sheau Yueh
J. Chao, qua thời gian lịch sử dài trên
5000 năm, tên họ người Trung Quốc
được h́nh thành qua các nguồn
gốc sau đây:
a. Lấy tên triều đại làm tên
họ: Ta có thể kể các thí dụ:
Hạ, Thương, Chu, Tần, Hán, Ngô,
Tấn, Đường, v.v…
b. Lấy tên nước làm tên họ:
Khi người Tàu vượt sông Hoàng Hà,
đuổi người Miêu Tộc đi th́
mỗi họ chiếm một chỗ do
tộc trưởng cai quản, gọi là ông
Hậu. Các xứ nhỏ ấy có rất
nhiều nên gọi là Vạn Bang và sau này
trở thành các chư hầu. Các ông Hậu
chọn người lănh đạo chung
gọi là Nguyên Hậu và sau này trở thành
Vương, tức vua. Đầu đời
nhà Chu (1122 TCN), số chư hầu có trên
1000. Đến thời Đông Chu (772 TCN),
số chư hầu c̣n lại độ 100.
Nhưng chỉ có khoảng 15 nước là
đáng kể như: Tần, Tề, Ngô,
Việt, Sở, Lỗ, Vệ, Yên, Triệu,
Tống, Trần, Thái, Trịnh, Ngụy, Hàn.
Tên hàng trăm tiểu quốc trên đă
biến thành tên họ. Ví dụ Hạng
Tịch tức Hạng Vũ có tổ tiên làm
tướng nước Sở, được
vua nước Sở phong cho ở đất
Hạng nên đă nhận họ Hạng.
c. Lấy tên huyện làm tên họ:
Thời xưa, đơn vị hành chánh
của Trung Quốc là châu và huyện. Người
ta đă lấy tên huyện làm tên họ. Ta
có thể kể các ví dụ: Sở Văn Vương
cho Lưu Phú đất huyện Hồng
tại Sơn Tây để cai trị và phong
cho ông tước Hầu nên gọi là
Hồng Hầu. Hiện nay, con cháu c̣n cư
ngụ tại đây và nhận tên Hồng làm
tên họ. Họ Bi là tên một huyện ngày
xưa, nay ở tỉnh Giang Tô. Họ Trác là
tên một huyện ngày xưa và nay gọi là
Trác quận.
d. Lấy tên làng làm tên họ: Hác là tên
một làng đời Hán và đă trở thành
tên họ. Họ Hác có một giai thoại,
trở thành tục ngữ của người
Trung Quốc. Đời Tấn, vợ của
Vương Hồn là Chung thị, và vợ
của Vương Trạm là Hác thị. Hai
chị em dâu ăn ở rất ḥa thuận nên
khi khen cách ăn ở của hai chị em dâu,
người Trung Quốc thường nói:
Chung Hác. Dương Kiên được cho
ở đất Tùy, sau đó nhận tên Tùy
làm tên họ và khi lên ngôi vua xưng là Tùy Văn
Đế. Nhương Hầu tên là Ngụy
Nhiễm, em của Tần Chiêu Vương,
được phong ở đất Nhương
và có tước Hầu nên gọi là Nhương
Hầu. Con cháu Ngụy Nhiễm đă lấy
tên đất Nhương làm tên họ. Ngày
nay, đất Nhương ở tỉnh Hà
Nam.
e. Lấy tên đất hoang làm tên
họ: Đời Xuân Thu-Chiến Quốc,
để phát triển kinh tế nông
nghiệp, nhà vua lấy đất hoang để
phong cho một người. Người đó
triệu tập dân chúng để khai hoang
lập ấp và cư dân lấy tên đất
làm tên họ. Loại tên họ này, khi
viết ra Hán tự, đều có bộ
ấp đi kèm. Ấp có nghĩa là đất
được người đứng lên chiêu
dân khai khẩn lập ấp. Rất nhiều
họ của người Việt Nam có
bộ ấp. Ví dụ: họ Nguyễn,
Trần, Đặng, Đào, Hàm, Thiệu, Châu,
Kỳ, Quách. Uất.
f. Lấy tên thành làm tên họ. Ngày xưa
các vua chúa xây thành quách để cư dân
ở, chống ngoại xâm và dân cư đă
lấy tên thành làm tên họ. Ta có thể
kể các họ sau đây: Phùng, Thôi,
Bảo, Dương, Bạch Mă, Mao, Miêu, B́nh.
g. Lấy tên dịch đ́nh làm tên
họ: Tại Trung Quốc vào đời Hán,
cứ 10 dặm đất được
gọi là một đ́nh, có người
đ́nh trưởng giữ ǵn an ninh. Trên
tuyến đường giao thông qua địa
phương đó, người ta dựng
một trạm gọi là dịch đ́nh cho hành
khách nghỉ chân. Cư dân ở đó,
nhận tên dịch đ́nh làm tên họ. Ví
dụ: họ Mă, Âu, Dương.
h. Lấy phương hướng làm tên
họ: Các họ như Đông, Tây, Nam,
Bắc, Tây Môn, Đông Môn, Đông Cung, Nam
Quốc. Tề Thần nối ngôi Tề Trang
Công, cư ngụ phía đông của cung
điện nhà Chu nên dân chúng đă chọn
tên họ Đông Cung để tưởng
nhớ vị vua này.
i. Lấy tên họ của các nhân
vật lịch sử làm tên họ: Ví
dụ: các họ Diêu, Nhâm, Cơ, Tư, Phong.
j. Nhận tên chính của danh nhân làm tên
họ: Ví dụ họ Ngũ, Kim, Thang,
Phục, Kha, Cao, Dư, Liên, Lộ. Theo sách
Nguyên Hà Tính Toản của Lâm Bảo
viết vào đời Đường (618-907), người
sáng lập họ Dư là ông Do Dư làm quan
đời Tần, con cháu nhân tên Dư làm tên
họ.
k. Dùng từ ngữ tôn kính làm tên
họ: Các từ ngữ chỉ sự kính
trọng trong Hán tự biến thành tên
họ: Tôn, Quân, Ông, Phủ, Phụ, Quản,
Thúc, Công v.v…
l. Dùng các từ chỉ thứ cấp
trong gia đ́nh làm tên họ: Ví dụ các
họ: Tôn, Bá, Thúc, Mạnh, Trọng, Quư.
m. Nhận tên các bộ lạc xưa hay
thị tộc làm tên họ: Ví dụ họ
Khương là tên một chủng tộc mà
sử sách gọi là rợ Khương.
Họ Di là một giống trong nhóm Bách
Việt. Họ Doăn là tên chỉ người
Hung Nô.
n. Lấy tên chức quan làm tên họ: Ví
dụ họ Tư Mă, họ Chúc, họ
Sử. Thời chiến quốc, triều
đ́nh có 5 chức quan khởi đầu
bằng chữ Tư: Tư Mă, Tư Đồ,
Tư Không, Tư Sĩ, Tư Khấu. Tư Mă
Nhương Thư giữ chức Tư Mă nên
lấy họ là Tư Mă. Họ Chúc: Đời
xưa Trung Quốc đặt ra quan Chúc và
quan Sử. Quan Chúc có hai nhiệm vụ.
Một là cầu nguyện cho dân được
hạnh phúc, hai là làm lịch, định ngày,
tháng cho đúng bốn mùa, xem sao trời
để đoán cát hung. Đời nhà Chu,
quan Chúc cố vấn cho vua, nên sách Chu Lễ
nói: Vương Điếu Tắc Dữ Chúc
Tiền, nghĩa là vua đi điếu, có
quan Chúc đi trước. Họ Sử: Quan
Sử coi việc nhân sự. Đời Chu có
các quan Đại Sử, Tiểu Sử,
Tả Sử, Hữu Sử, Nội Sử,
Ngoại Sử. Chúc và Sử là hai chức
vụ quan trọng, ai giữ chức vụ
ấy được cha truyền con nối.
Do vậy, chức quan Chúc và Sử biến thành
tên họ.
o. Nhận tên chức vụ cao quư làm tên
họ: Các họ đó là Vương, Hoàng,
Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
p. Lấy tên vua ban làm tên họ: Vua chúa
Trung Quốc xưa có tục ban tên cho các công
thần và dân chúng coi đó là một ân
điển nên chọn tên vua ban làm tên
họ: Ví dụ Thanh Thành Công được
vua Thái Tổ nhà Minh là Chu Nguyên Chương
ban cho tên Chu, nên ông này đổi tên thành
Chu Thành Công. Vua Đường Cao Tôn ban tên
Lư cho ông Dự Úc, nên ông đổi tên là Lư
Nguyên.
q. Lấy tên nghề nghiệp làm tên
họ: Ví dụ họ Ngư, Tiều, Canh,
Mục.
r. Lấy danh từ chỉ kỹ năng
chuyên môn làm tên họ: Ta có thể kể các
tên họ sau đây: Ở Trung Quốc có
lớp người gọi là Vu và Hích. Vu là
người con trai, Hích là người con gái.
Vu và Hích làm nghề đồng bóng, thầy
cúng, thầy pháp. Họ có thế lực
rất mạnh nên vua đặt chức Tư
Vu. Dân Trung Quốc xưa lấy từ Vu và Hích
làm tên họ. Họ Đồ tức đồ
tể là người chuyên giết thịt súc
vật. Họ Bốc do bốc phệ, bói toán.
Họ Đào: người nặn và nung đồ
gốm. Những nghề này cần có kỹ
năng chuyên môn nên dân Trung Quốc đă
chọn các chữ này làm tên họ.
s. Lấy tên cây cối làm tên họ:
Loại tên này rất dễ nhận diện
v́ khi viết ra Hán tự các tên đều có
bộ mộc. Ví dụ họ Lâm: rừng cây,
họ Lư: cây mận, họ Quế: cây
quế, họ Sở : bụi gai, họ Lê: cây
lê.
t. Lấy tên đồ vật làm tên
họ: Ta có thể kể những ví dụ
sau: họ Xa: cái xe, họ Quan: cái mũ,
họ Phù: cái thẻ làm bằng tre, họ
Cung: cây cung.
u. Thêm từ ngữ thân tộc để
thành tên họ ghép: Các từ Tôn, Bá,
Mạnh, Trọng, Quư được thêm vào
tên họ thành tên họ mới để
chỉ người đó là con cháu của
ai. Ví dụ họ Vương Tôn: cháu vua, Công
Tôn: cháu của người có tước công.
Nguyên Bá: con đầu ḷng của ông họ
Nguyên.
v. Lấy họ vợ ghép chung họ
chồng thành họ mới của con: Ví
dụ ông họ Trương lấy bà họ
Trần. Con cái ông bà này mang họ Trương
Trần. Loại họ này có nhiều ở
Trung Quốc, nhưng không có đặc tính
truyền thừa.
w. Lấy từ ngữ có nghĩa
xấu làm tên họ. Các nhà lănh đạo
Trung Quốc xưa có tục trừng phạt
một phạm nhân bằng cách bắt người
đó nhận tên họ có ư nghĩa xấu
xa, độc ác. Loại tên này, nếu
viết ra Hán tự, đều có bộ trùng.
Ví dụ họ Măng: con trăn, họ
Phục: con rắn độc, họ Ác: độc
địa.
Ngày mai: Nguồn gốc tên họ Việt Nam |