TIẾT G: THƯƠNG HIỆU
1. Định Nghĩa Thương Hiệu:
Thương hiệu là loại tên đặt
cho cơ sở kinh doanh, thương mại
hay cung cấp dịch vụ. Thương
hiệu được nghiên cứu ở
đây v́ người Việt có phong tục
dùng thương hiệu để gọi người
chủ thay v́ tên chính. Thương hiệu cũng
như bút hiệu hay nghệ danh, mới
xuất hiện khi Việt Nam tiếp xúc
với nền văn hóa tây phương. Tuy
vậy, ta cũng nên biết dân Việt đă
gọi các cơ sở thương mại và
dịch vụ thế nào trước thời
Pháp thuộc.
2. Thương Hiệu Trước Thời
Pháp Thuộc: Trước thời Pháp
thuộc, thành thị chưa phát triển,
sức sản xuất nông nghiệp và
thủ công bị giới hạn trong phạm
vi gia đ́nh. Sản phẩm làm ra chỉ
đủ thỏa măn nhu cầu gia đ́nh, làng
xă. Do vậy, không ai nghĩ đến
việc đặt thương hiệu. Tuy nhiên,
người ta thấy dân chúng có tục
lấy tên người chủ để
gọi cơ sở thương mại đó.
Ví dụ: nước mắm bà giáo Thảo,
thuốc ông lang Phương, bún bà Bơ, ḷ
rèn ông Bắc, đi tàu chú Hỏa, ở nhà
chú Hỷ v.v…
Trường hợp có sản phẩm nổi
tiếng, được cả làng sản
xuất, được nhiều người
tiêu dùng, th́ người ta dùng tên làng, tên
địa phương sản xuất để
đặt thương hiệu cho sản
phẩm đó. Ta có thể kể các ví
dụ: nhiễu B́nh Định, the La Khê,
lụa Cổ Độ, chiếu Phát
Diệm, tương Cự Đà, bút Bạch
Liên, mực Kiêu Kỵ, giấy Yên Thái,
mắm Phú Quốc, vải Thương
Hội, gạch Bát Tràng, nón Kim Động,
tranh Đông Hồ v.v…
Ngoài ra, theo cách thức tổ chức
nghề nghiệp trong xă hội cổ
truyền, các người làm cùng nghề
họp lại thành phường và thường
quy tụ ở một nơi. Họ lấy tên
nghề hay tên sản phẩm đặt tên
cho nơi đó. Chứng tích c̣n lại
tới ngày nay là tại Hà Nội có các
phố hàng Đào chuyên bán vải, phố hàng
Trống, phố hàng Bạc, phố hàng
Giấy, phố hàng Mành, phố hàng Đường
v.v…Tóm lại, trước thời Pháp
thuộc, Việt Nam chưa có thương
hiệu, mới chỉ có từ ngữ
chỉ người và nơi sản xuất.
3. Thương Hiệu Trong Thời Pháp
Thuộc: Dưới thời Pháp thuộc,
các tư nhân và công ty Pháp đưa thương
hiệu vào sinh hoạt kinh tế Việt Nam.
Năm 1863, hăng Denis Frères là hăng đầu tiên
có mặt tại đường Catinat, thành
phố Sàig̣n. Năm 1892, hăng rượu bia
Hommel mà dân ta khi xưa thường gọi là
Ô Mền, là hăng đầu tiên của Pháp có
mặt tại Hà Nội. Từ đó, các hăng
xưởng, các nhà buôn Pháp đến
Việt Nam làm ăn đă đưa thương
hiệu vào sinh hoạt kinh tế. Ta có
thể kể các thương hiệu của
họ như Messageries Maritimes, Grivral, Continental,
Pôle du Nord, Chez Albert, Alimentation Générale, BGI,
Eden, Majestic, Maxim v.v...Người Việt
tại Hà Nội và Sàig̣n đă bắt chước
Pháp đặt thương hiệu cho các cơ
sở thương mại của ḿnh như
chúng ta thấy ngày nay. Tuy nhiên, chúng tôi chưa
biết ai là người Việt đầu
tiên dùng thương hiệu.
Tại vùng Phát Diệm, Ninh B́nh, cách Hà
Nội hơn 100 cây số, theo các cụ
kể lại, vào khoảng năm 1930, các
cửa hàng mới bắt đầu treo
bảng thương hiệu, và cửa
tiệm đầu tiên ở vùng này là
cửa hàng đóng và sửa giầy Công
Thịnh. Dân chúng thường dùng thương
hiệu để gọi chủ nhân cơ
sở thương mại. Ví dụ: ông bà Công
Thịnh, ông bà Nghĩa Lợi, ông bà Hưng
Phú.
4. Thương Hiệu Thời Xă Hội
Chủ Nghĩa: Vào năm 1954, khi đảng
Cộng Sản áp dụng chế độ
kinh tế xă hội chủ nghĩa tại
miền Bắc Việt Nam, và sau này tại
miền Nam Việt Nam từ năm 1975, th́ bao
nhiêu thương hiệu của Pháp hay
của tư nhân đều bị xóa bỏ.
Thay vào đó, xuất hiện một loại
thương hiệu rập khuôn theo kiểu
mẫu của Liên Bang Nga Sô Viết dưới
thời Cộng Sản. Các thương
hiệu này đều có nội dung chính
trị và có mục đích phục vụ
chế độ Cộng Sản. Ta có thể
kể các ví dụ: nhà Xuất Bản Sự
Thật, nhà Máy Dệt 1 tháng 5, nhà máy
Quyết Thắng, thuốc lá Vàm Cỏ, Sàig̣n
Giải Phóng, Điện Biên, cửa hàng
Ăn Uống Quận Phú Nhuận, bệnh
viện Hữu Nghị Việt Sô, bệnh
viện Thống Nhất v.v…Vào năm 1986,
khi Việt Nam bắt đầu chuyển
một phần nền kinh tế chỉ huy
sang kinh tế thị trường, th́ các thương
hiệu theo kiểu xă hội tư bản
lại xuất hiện.
5. Thương Hiệu Trong Chế Độ
Tư Bản: Sau năm 1954, miền Nam
Việt Nam và từ năm 1986, cả nước
Việt Nam áp dụng nền kinh tế tự
do th́ thương hiệu theo kiểu kinh
tế tư bản đă xuất hiện, và
ta có thể chia làm ba loại chính:
a. Thương hiệu của người
ngoại quốc: Nhiều quốc gia trên
thế giới đến đầu tư
tại Việt Nam. Tuy nhiên, bốn ngoại
ngữ Pháp, Hoa, Anh, Nhật là thông dụng.
Với Pháp ngữ ta có thể kể các thương
hiệu: BGI, Continental, Givral, Mic, Bastos, Palace.
Với Hoa ngữ ta có: Nhị Thiên Đường,
Vĩnh An Đường, An Ḥa Đường,
Hải Kư Ḿ Gia, Đông Ích Chành, Đồng
Khánh Tửu Lầu v.v…
Với nhật Ngữ ta có các thương
hiệu: Sony, Yamaha, Panasonic. Honda.
Với Anh ngữ ta có Ford, General Motor, IBM.
v.v…
b. Thương hiệu của các cơ
sở quốc doanh: Mặc dù Việt Nam
đă có nền kinh tế thị trường,
nhưng Đảng Cộng Sản vẫn duy
tŕ các cơ sở quốc doanh nên thương
hiệu có nội dung chính trị dưới
thời xă hội chủ nghĩa vẫn
tồn tại.
c. Thương hiệu của tư nhân
Việt Nam: Trong chế độ tư
bản, chủ nhân rất chú trọng đến
vấn đề làm cho giới tiêu thụ
tin tưởng vào sản phẩm, dịch
vụ của ḿnh. Do đó, khi đặt thương
hiệu, họ chọn những từ ngữ
thích hợp như:
Để biểu lộ tinh thần làm ăn
chính trực, nhân nghĩa, thương nhân
đă chọn các thương hiệu như:
Tín Đức Thư Xă, Kim Tín, Mỹ Tín, Nghĩa
Lợi, Nghĩa Ḥa, Tín Nghĩa.
Để ước mong làm ăn thịnh vượng,
ta có các thương hiệu Bảo Long, Hưng
Long, Hưng Thịnh, Hưng Lợi v.v…
Để biểu lộ sản phẩm có
chất lượng tốt như đồ
hải ngoại, các nhà sản xuất c̣n dùng
các từ ngữ giống như tiếng nước
ngoài để chiêu dụ khách hàng. Loại
thương hiệu này đang ngày càng
phổ biến. Ta có thể kể các ví
dụ từ năm 1950 tới nay: kem đánh
răng Perlon, Hynos, thuốc lá Capstan, rạp
chiếu bóng Rex, Palace, khách sạn Caravelle, hăng
dệt Vinatexco, Vimytex, kem thoa mặt Renova, kem Pôle
du Nord, nhà hàng Continental, tiêm bánh Givral v.v…Thương
hiệu dưới chế độ tư
bản rất đa dạng và phong phú, không
thể tŕnh bày hết ở đây. Mong có thêm
những công tŕnh nghiên cứu về lănh
vực khá kỳ thú này.
Ngày mai: Thụy Hiệu |