CHƯƠNG MỘT: DANH XƯNG ĐẶC
BIỆT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
Ngoài tên họ, tên đệm, tên chính, người
Việt Nam c̣n nhiều loại tên. Có
loại đă vĩnh viễn đi vào
lịch sử, có loại mới xuất
hiện khi nước ta tiếp xúc với văn
hóa tây phương, có loại dành riêng cho
một giai cấp hoặc tầng lớp xă
hội nhất định. Do vậy, chương
này nhằm t́m hiểu những danh xưng
đặc biệt của người
Việt Nam, và nội dung sẽ gồm 2
mục chính: mục một nói về các danh
xưng đặc biệt của vua chúa
Việt Nam, mục hai nói về các danh xưng
đặc biệt của thường dân
Việt Nam.
MỤC I : DANH XƯNG ĐẶC BIỆT
CỦA VUA CHÚA VIỆT NAM
Dưới thời quân chủ, khi viết
tiểu sử một ông vua, các sử gia thường
dùng một số đặc ngữ mà
chỉ những người chuyên về
sử mới hiểu dễ dàng, c̣n những
người không chuyên môn, thường
cảm thấy lúng túng v́ một số danh
từ đặc biệt. Đoạn văn
sau đây trích trong Đại Việt Sử
Kư Toàn Thư viết về Trần Thái Tông
(1225-1258) chứng minh cho nhận xét này:
Tên húy là Hoảng, con trưởng ḍng đích
của Thái Tông. Mẹ là Hiển Từ
Thuận Thiên hoàng thái hậu Lư thị, nhân
Thái Tông chiêm bao thấy thượng đế
trao gươm báu, hậu có mang. Năm Canh Tư
Thiện Ứng Chính B́nh năm thứ 9, ngày
25, giờ ngọ sinh, sau đó lập làm hoàng
thái tử. Thái Tông băng ở cung Nhân
Thọ, táng ở Dụ Lăng.
Qua đoạn văn trên, các danh xưng Thái
Tông, Thuận Thiên, Thiện Ứng Chính B́nh
là loại danh xưng ǵ và ư nghĩa ra sao?
Để trả lời câu hỏi đó,
mục một sẽ nghiên cứu danh xưng
đặc biệt của vua chúa Việt Nam
qua 5 tiết: (a) đế hiệu, (b) niên
hiệu, (c) tôn hiệu, (d) thụy hiệu,
(e) và miếu hiệu.
TIẾT A: ĐẾ HIỆU
Đế hiệu là tên triều đại
của một vị vua được công
bố trong ngày lễ đăng quang để
minh chứng với thần dân trong nước
vua là chủ tể, có mọi quyền hành trên
thần dân và đất nước. Trong
suốt thời gian trị vị, vua Trung
Quốc cũng như vua Việt Nam chỉ có
một đế hiệu, nhưng có thể có
nhiều niên hiệu hay tôn hiệu. Đế
hiệu của các vua Việt có những
điểm khác nhau ở mỗi giai đoạn
lịch sử.
1. Đế Hiệu Các Vua Việt Thời
Sơ Sử: Theo cổ sử, các vua đầu
tiên của nước ta có các đế
hiệu là Hùng Vương Thứ Nhất
đến Hùng Vương Thứ Mười
Tám. Với cách thức lựa chọn này,
liệu các vua Việt trong giai đoạn sơ
sử, đă biết chọn cho ḿnh một
đế hiệu chưa? Phải chăng người
đời sau, khi viết về các vị lănh
đạo ban đầu, đă đặt cho
các ngài đế hiệu giống kiểu cách
Trung Quốc? Theo kết luận tạm
thời của chúng tôi, các đế
hiệu trên đây là do người sau đặt,
dựa trên ba lư do:
a. Xét về mặt ngôn ngữ: Các đế
hiệu trên đều là danh từ Hán
Việt, có nghĩa là tiếng Hán được
phát âm theo giọng Việt. Mà muốn
được như thế, người
Việt đă phải biết dùng chữ Hán
một cách nhuần nhuyễn, đă thấm
nhuần sâu sắc văn hóa Trung Quốc.
Cả hai điều kiện đó không có
trong xă hội Việt Nam thời sơ
sử, v́ măi đến năm 207 trước
Công Nguyên, nghĩa là sau gần 2500 năm tính
từ Kinh Dương Vương, Việt Nam
mới thực sự biết đến
chữ Hán, và bắt đầu chịu
ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc.
Từ đó, người Việt mới
bắt đầu du nhập các thể
chế chính trị của triều đ́nh
Trung Quốc.
b. Xét về mặt dân tộc học: Xưa
nay, dân Việt không có tục lệ dùng
một tên duy nhất, rồi phối hợp
các con số để đặt tên cho các
người khác nhau như kiểu Hùng Vương
Thứ Nhất đến Hùng Vương
Thứ Mười Tám.
c. Lịch sử chức vương: Chức
vương phát sinh từ triều đ́nh
Trung Quốc và bắt đầu có vào đời
nhà Chu, tức khoảng 1122-249 TCN. Trong khi
đó, Hùng Vương Thứ Nhất của
Việt Nam đă sống trước đó
cả hơn ngh́n năm.
Theo thiển ư, thời sơ sử Việt
Nam kéo dài gần 3000 năm, ngoài 18 vị
được gọi là các vua Hùng, chúng ta c̣n
nhiều vị lănh đạo nữa, nhưng
kư ức dân gian đă quên mất, và người
đời sau đă tự đặt hai
từ Hùng Vương làm đế hiệu
cho các nhà lănh đạo ban đầu.
Một vấn đề khác nữa là các nhà
lănh đạo nước Văn Lang có đế
hiệu Hùng Vương hay Lạc Vương?
Theo truyền thuyết và sử cũ th́ cho là
Hùng Vương, c̣n theo một số nhà
sử học hiện nay th́ cho là Lạc Vương.
Tuy nhiên, vấn đề không thuộc
phạm vi tính danh học, nên không được
đào sâu ở đây. Nhưng, nếu là
Lạc Vương th́ có bao nhiêu đế
hiệu Lạc Vương? Và thực sự
có danh hiệu Lạc Vương hay không?
Lạc Vương cũng như Hùng Vương
đều là danh từ Hán Việt. Tính danh
học Việt Nam chờ câu trả lời
của các nhà sử học và khảo cổ
học. Tuy nhiên, chúng ta phải khâm phục
tiền nhân đă khéo chọn hai chữ Hùng
Vương để xây dựng căn
bản lư thuyết vương quyền. Hùng
Vương, nếu hiểu theo nghĩa là ông
vua anh hùng, th́ đó là bằng chứng
cụ thể cho lập luận này. Đây là
một quan niệm hoàn toàn đặt trên nhân
tính: vua có quyền cai trị v́ có đức
tính anh hùng, chứ không như vua Trung
Quốc hay Âu Châu thời Trung Cổ, phải
nại tới thần quyền hay thiên
mệnh để biện minh cho quyền
lực của ḿnh.
2. Đế Hiệu Các Vua Việt Thời
Tự Chủ: Sau thời Hùng Vương
đến giữa thế kỷ 20, không
kể 1000 năm Bắc thuộc, thời gian
c̣n lại, nước ta được
trị v́ do các vua có đế hiệu
được phân thành ba nhóm: nhóm một
gồm những đế hiệu có từ
đế hay hoàng đế, nhóm hai gồm
những đế hiệu có từ vương,
nhóm ba đế hiệu do các vua Tàu phong cho.
a. Đế hiệu có từ đế hay hoàng
đế. Trong số hơn 100 vị vua
Việt Nam, có 8 vị xưng đế hay hoàng
đế. Nhưng trước hết, hăy nói
về trường hợp Triệu Đà. Năm
207 TCN, Triệu Đà đánh bại An Dương
Vương, lập ra nước Nam Việt,
xưng làm vua, đặt đế hiệu là
Triệu Vũ Đế. Nhà Triệu cai
trị Nam Việt từ năm 207 đến
111 TCN, truyền ngôi được 5 đời.
Thời gian này, nước Việt ngoại
thuộc nhà Triệu v́ Triệu Đà là người
Tàu. Ông xâm lăng Âu Lạc, lập ra nước
riêng biệt, không do lệnh của Hán
triều. Tuy nhiên, ông chấp nhận chức
Nam Việt Vương do nhà Hán phong như
một biểu lộ thần phục Trung
Quốc. Tuy vậy, với thần dân trong nước,
ông tuyên bố đế hiệu là Triệu
Vũ Đế, Nam Việt Vũ Đế
để tỏ ra nước Nam Việt
độc lập với Trung Quốc, có
quyền ngang hàng với hoàng đế Trung
Quốc. V́ chuyện này mà Hán triều sai
sứ sang hạch tội Triệu Đà và
sử gia đă ghi lại lời chống
chế của Triệu Đà như sau:
Lăo thần xưng đế, cũng tạm
để tự vui thôi, đâu dám để
lọt đến tai thiên tử. Lăo phu ở
đất Việt đă 49 năm nay, đă có
cháu rồi, thế nhưng khuya nằm
sớm dậy, ngủ chẳng yên, ăn
chẳng ngon, mắt không dám nh́n sắc đẹp,
tai không dám nghe chuông trống, chỉ v́ không
được thờ nhà Hán. Nay được
bệ hạ rủ ḷng thương yêu cho
hiệu cũ, sứ giả thông hiếu như
trước. Lăo phu này dù phải chết xương
cũng không mục.Vậy xin đổi
hiệu, không dám xưng đế nữa.
Từ khi có vụ hạch tội, Triệu
Đà không xưng đế với Hán
triều nữa, xưng là Nam Việt Vương,
Triệu Vũ Vương. Nhưng, với
thần dân trong nước, ông xưng là
Triệu Vũ Đế.
Đến năm 544, dân Việt dành
được quyền tự chủ, Lư Bôn
(544-549) là vị vua đầu tiên xưng hoàng
đế và lần này vua Tàu lại sai
sứ sang khiển trách Lư Bôn. Khi Đinh
Bộ Lĩnh (968-979) xưng đế, nhà
Tống sai sứ sang phong cho làm Giao Chỉ
Quận Vương. Khi Lê Đại Hành
(980-1005) xưng đế, nhà Tống hạ
chức vua này xuống là An Nam Đô Hộ,
sau được Tĩnh Hải Quân Tiết
Độ Sứ, cuối cùng được
Giao Chỉ Quận Vương, rồi Nam B́nh
Vương. Sách Đại Việt Sử Kư
Tiền Biên ghi lại chuyện vua Tàu trách
vua Lê Đại Hành về chuyện xưng
đế như sau:
Vua Tống sai Trương Tông Quyền
đưa thư trách Lê Đại Hành xưng
đế và bắt đổi niên hiệu.
Qua các tài liệu lịch sử trên, một
câu hỏi được đặt ra là
tại sao vua Tàu phải khó chịu khi vua
Việt xưng đế? Để trả
lời câu hỏi này, chúng ta cần t́m
hiểu nguồn gốc phát sinh từ đế
hay hoàng đế.
Đế hiệu là một pháp chế chính
trị phát xuất từ triều đ́nh
Trung Quốc. Vào đời nhà Chu (1122-249 TCN),
vị đứng đầu nước
lớn xưng là vương, như Chu Văn
Vương. Các chư hầu, dù mạnh, dù
làm minh chủ cũng chỉ được
phong cho một trong năm chức là: công,
hầu, bá, tử, nam. Ví dụ Tề Hoàn Công,
Tần Mục Công, Sở Trang Công. Sang
thời Chiến Quốc, thủ lănh các chư
hầu không thần phục nhà Chu nữa,
họ cũng xưng vương như
Tần Huệ Vương, Tề Tuyên Vương.
Vậy, dưới thời nhà Chu, vua cai
trị nước lớn hay nước
nhỏ đều gọi là vương, và vương
là chức cao nhất. Đến thời nhà
Tần, khi Tần Doanh Chính thống nhất
Trung Quốc, th́ tân vương này đưa
ra sáng kiến gộp hai chữ hoàng và đế
lại để làm đế hiệu. Ngoài
ra, để hậu thế biết ai là người
đầu tiên dùng đế hiệu này, ông
đặt thêm chữ Thủy thành Tần
Thủy Hoàng Đế, nghĩa là vị hoàng
đế đầu tiên của nhà Tần. Tư
Mă Thiên đă chép về việc này:
Trẫm là Thủy Hoàng Đế, các đời
sau cứ theo số mà tính: Nhị Thế, Tam
Thế đến Vạn Thế truyền măi
măi.
Như vậy, dưới đời nhà
Tần, hoàng đế là chức cao nhất,
được hiểu là vua nước
lớn, và vương là vua nước
nhỏ. Đến khi Triệu Cao diệt nhà
Tần, ông bỏ cách xưng đế,
trở về định chế vương.
Sử gia Tư Mă Thiên ghi lại sự
kiện này:
Thủy Hoàng làm vua cả thiên hạ nên xưng
đế. Nay sáu nước lại tự
lập, đất đai của Tần càng
nhỏ đi, làm đế chỉ có cái tên
hăo mà thôi, như thế không nên, nên làm vương
như trước.
Tuy nhiên, từ đời nhà Hán về sau,
vua Tàu nào cũng mặc nhiên dùng hai chữ
hoàng đế cho đế hiệu của ḿnh.
Sự phân biệt đế và vương trên
đây, giải thích lư do tại sao từ
Triệu Đà đến các vua sau cùng nhà
Nguyễn, trên mặt ngoại giao với Trung
Quốc, tuyệt đại đa số vua
Việt chỉ xưng vương mà không xưng
đế. Kết luận này sẽ được
chứng minh thêm trong phần nghiên cứu các
đế hiệu vua Việt Nam có từ vương.
b. Đế hiệu có từ vương. Vua
Việt Nam có nhiều vị xưng vương.
Tại sao vua Việt xưng vương, vua Tàu
không có thái độ phản đối như
xưng đế ? Chúng ta t́m hiểu vấn
đề này qua pháp chế nhà Hán. Nhà Hán
diệt nhà Tần, chia Trung Quốc ra làm
nhiều nước. Nước lớn th́
gọi là quận, nước nhỏ gọi
là huyện. Các nước này đều
gọi là quốc, và người đứng
đầu quận được phong là vương,
đứng đầu huyện là hầu.
Đối với các nước láng
giềng Trung Quốc, nhà Hán cho là phiên
thuộc và vua các nước ấy được
phong tối đa tới chức vương,
nghĩa là dưới đế một
bậc. Việt Nam bị xếp vào loại
phiên thuộc, nên các vua Tàu phong cho các vua
Việt chức vương là bậc cao
nhất. Triệu Đà (207-136 TCN) xưng
đế nhưng vua Tàu chỉ phong làm Nam
Việt Vương, Đinh Bộ Lĩnh xưng
Đinh Tiên Hoàng Đế (968-979) được
phong Giao Chỉ Quận Vương, Lê Đại
Hành (980-1005) được Nam B́nh Vương.
Đời Lư, vua Tống Thần Tông nước
Tàu phong cho Lư Thánh Tông (1054-1072) chức Nam B́nh
Vương. Sang đời Trần, vua Tàu
phong cho Trần Thánh Tông (1258-1278) chức An
Nam Quốc Vương và Thái Thượng Hoàng
Trần Thái Tông (1225-1258) chức An Nam Đại
Vương. Từ vua Lê Nhân Tông (1443-1459)
tới Lê Tương Dực (1510-1516), vua Tàu
đều phong cho làm An Nam Quốc Vương.
Vua Quang Trung (1788-1792) cũng là An Nam Quốc Vương
và vua Gia Long (1802-1819) là Việt Nam Quốc Vương.
Riêng trong thời hậu Lê, về mặt
tổ chức, nước ta có hai hệ
thống: một do vua Lê, một do chúa
Trịnh cầm đầu. Trong chế độ
này, vua Lê tuy được xem là chủ
tể quốc gia có đế hiệu, niên
hiệu, nhưng quyền hạn lại
nằm trong tay chúa Trịnh. Ngược
lại, chúa Trịnh trên danh nghĩa là
bề tôi, phải nhận sự tấn phong
của vua Lê, nhưng lại có thực
quyền. Để giải quyết vấn
đề chồng chéo này, người ta
đưa ra giải pháp được vua Lê
chấp thuận là phong cho Trịnh Tùng và con
cháu nối nghiệp ông chức vương.
Vương không phải là đế nhưng
cũng có nghĩa là vua. Chức vương
của các chúa Trịnh khác với vương
của các triều đại trước.
Các triều đại Tàu cũng như
Việt có lệ phong vương, nhưng vương
của các triều đại ấy chỉ là
một thứ tước hiệu tôn quư,
tặng cho những người trong hoàng
tộc, hoặc những người có công
với triều đ́nh. Có người
được tôn phong là đại vương
như Hưng Đạo Đại Vương.
Nhưng vương ở đây chỉ là
thứ tên tước, đứng đầu
trong các tước hiệu công, hầu, bá,
tử, nam. Và theo pháp chế thời xưa,
người mang tên tước không có
quyền hạn, chỉ hưởng bổng
lộc của triều đ́nh. V́ vậy, dân
gian thường nói tước lộc. Ngược
lại, vương của các chúa Trịnh là
một chức vụ, không phải tước
hiệu, nghĩa là vừa có trách nhiệm,
vừa có quyền lực, vừa có bổng
lộc như ông vua của một nước.
Đồng thời với 11 chúa Trịnh
ở miền Bắc, miền Nam có 9 chúa
Nguyễn. Các chúa Nguyễn chỉ xưng tước
Công như Đoan Quận Công, Thụy
Quận Công, Nhân Quận Công. Công là một
trong 6 tước được xếp theo
thứ tự cao thấp là: vương, công,
hầu, bá, tử, nam. Lư do các chúa Nguyễn
xưng công, dưới vương một
bậc, v́ ban đầu so về quyền
lực và sức mạnh, th́ các chúa
Nguyễn yếu thế hơn chúa Trịnh.
Nhưng về sau, khi chúa Trịnh yếu
thế, chúa Nguyễn trở nên mạnh th́ 2
chúa cuối cùng là Nguyễn Phúc Khoát
(1738-1765) xưng là Minh Đô Vương và
Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) xưng là
Định Vương.
Tước công của các chúa Nguyễn
thực ra cũng không phải là tên tước,
mà là tên chức vụ, v́ cũng như chúa
Trịnh, chúa Nguyễn vừa có quyền,
vừa có lộc. Sở dĩ như vậy v́
thời hậu Lê, nước Việt ở
trong t́nh trạng đặc biệt, vua Lê có
chính danh nhưng không có thực quyền.
Quyền hành nằm cả trong tay chúa
Trịnh phía Bắc và chúa Nguyễn phía Nam.
c. Đế hiệu do vua Trung Quốc phong cho:
Từ khi thoát khỏi ách đô hộ Trung
Quốc, các vua Việt luôn đề cao tinh
thần tự chủ độc lập,
thể hiện qua việc các ngài xưng vương,
xưng đế, đặt quốc hiệu,
và niên hiệu cho triều đại của
ḿnh. Tuy quyết tâm bảo vệ độc
lập, nhưng các vua Việt cũng ư
thức rằng, chiến tranh hay áp dụng chính
sách ngoại giao cứng rắn với Trung
Quốc là điều bất lợi cho dân
tộc. V́ vậy, các nhà lănh đạo lúc
bấy giờ đă có một đường
lối ngoại giao ḥa hoăn. Dù có chiến
thắng vẻ vang như trường hợp
Quang Trung Nguyễn Huệ (1788-1792) đại
phá quân Thanh, th́ ngay sau đó, vua ra lệnh
cho Ngô Thời Nhiệm phải gửi phái
đoàn đi sứ, xin nộp cống để
tỏ thái độ thần phục hoàng
đế Trung Quốc.
Về phía triều đ́nh Trung Quốc,
họ cũng biết là nếu không xâm
chiếm được đất Việt, th́
phong cho các vua Việt đế hiệu có
chữ vương như một ấn
chứng vua Việt lệ thuộc vào nước
Tàu. Chức vụ này qua các triều đại
đă được dần dần nâng cao:
Nhà Ngô: Năm 954, vua Nam Hán phong cho Hậu Ngô
Vương (950-965) chức Tĩnh Hải Quân
Tiết Độ Sứ.
Nhà Đinh: Năm 976, vua Tống phong Đinh
Tiên Hoàng (968-979) làm Giao Chỉ Quận Vương.
Nhà tiền Lê: Năm 980, Lê Đại Hành
(980-1005) được phong Giao Chỉ
Quận Vương, sau được Nam B́nh
Vương.
Nhà Lư: Năm 1010, Lư Thái Tổ (1010-1028) ban
đầu được phong là Giao Chỉ
Quận Vương, sau được Nam B́nh
Vương. Từ đời Lư Anh Tông
(1138-1175) trở đi, các vua nhà Lư được
phong là An Nam Quốc Vương.
Nhà Trần: Năm 1258, vua Tàu phong cho Trần
Thánh Tông (1258-1278) chức An Nam Quốc Vương
và Thái Thượng Hoàng Trần Thái Tông
(1225-1258) chức An Nam Đại Vương.
Nhà hậu Lê: Từ Lê Nhân Tông (1443-1459)
tới Lê Tương Dực (1510-1516), vua Tàu
đều phong cho làm An Nam Quốc Vương.
Nhà Tây Sơn: Năm 1788, Quang Trung Nguyễn
Huệ (1788-1792) được phong là An Nam
Quốc Vương.
Nhà Nguyễn: Năm 1802, vua Gia Long (1802- 1819)
được phong là Việt Nam Quốc Vương.
Việc phong vương cho các vua Việt trên
đây biểu lộ rơ ràng thâm ư vua Tàu coi
đất Việt là một quận của
Trung Quốc nên có quyền chỉ định
viên chức đại diện. Vua Việt
chấp nhận t́nh trạng này v́ muốn
duy tŕ mối giao hảo với Trung Quốc.
Tuy nhiên, các ngài chỉ dùng chức vị
đó khi có việc giao thiệp với Trung
Quốc, c̣n khi liên lạc với các nước
láng giềng hay đối với thần dân
trong nước, các vua Việt từ Đinh
Tiên Hoàng đến các vị sau cùng nhà
Nguyễn, vị nào cũng xưng hoàng đế.
Sau đế hiệu, niên hiệu là danh xưng
quan trọng thứ hai của hoàng đế
Trung Quốc và Việt Nam.
|