TIẾT E: MIẾU HIỆU
1. Định Nghĩa Miếu Hiệu:
Miếu hiệu là tên vua đă chết
được vua nối ngôi, hoặc đ́nh
thần đặt để viết trên bài
vị hay trên các bài văn tế đọc
trong các dịp giỗ chạp. Dưới
thời quân chủ, các sử gia bản
triều chỉ được dùng niên
hiệu và miếu hiệu để làm
mốc ghi chép sự kiện lịch sử.
2. Nguồn Gốc Miếu Hiệu:
Miếu hiệu phát xuất từ Trung
Quốc. Hai ông Lư Nham Linh và Cố Đạo
Hinh cho biết, đầu tiên, các vua Tàu dùng
hai chữ Tổ hay Tông để làm miếu
hiệu và miếu hiệu bắt đầu
được dùng từ thời nhà Thương
(1766-1200 TCN). Thương Thang có miếu
hiệu là Cao Tổ. Sang đời Chu,
Tần, người ta bỏ danh hiệu
tổ hay tông. Nhưng đến đời Hán
th́ Lưu Bang khai sáng nhà Hán, được
đặt là Thái Tổ, cháu là Lưu
Triệt được đặt là Thế
Tông. Lư Uyên khai sáng nhà Đường
được đặt là Cao Tổ, Lư
Thế Dân là Thái Tông. Tuyệt đại
đa số vua Tàu, từ Hán Vũ Đế
đến vua Quang Tự nhà Thanh, ông nào cũng
có miếu hiệu.
3. Nguyên Tắc Đặt Miếu Hiệu:
Khi đặt miếu hiệu, vua hay triều
đ́nh phải căn cứ vào thế
hệ thứ cấp trong hoàng tộc để
xác định vị trí cao thấp trong thái
miếu. Các từ để chỉ thứ
cấp là: tổ, tông, hay tôn. Tổ có nghĩa
là người khai sáng triều đại. Tông
nghĩa là ḍng họ. Tại Việt Nam,
nhiều sách sử ghi miếu hiệu với
chữ Tôn. Tôn là tiếng đọc trại
để tránh tên vua Minh Mạng là Nguyễn
Phúc Miên Tông. Nguyên tắc định
miếu hiệu là vua có công khai sáng triều
đại được gọi là tổ.
Những vua kế vị được
gọi là tông.
4. Miếu Hiệu Của Các Vua Chúa
Việt Nam: Trong số các vị vua
Việt, sử sách ghi 49 vị có miếu
hiệu với chữ tổ, tôn, hay tông.
Vị vua đầu tiên được
sử ghi miếu hiệu là Lê Trung Tông
(tr.v.1005). Từ năm 1005 đến 1884,
vị vua nào cũng có miếu hiệu. Sau
đây là một số ví dụ :
Nhà Tiền Lê: Lê Trung Tông.
Nhà Lư: Lư Thái Tổ, Lư Thái Tông.
Nhà Trần: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông.
Nhà Hậu Lê: Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông.
Nhà Mạc: Mạc Thái Tổ, Mạc Thái Tông.
Nhà Nguyễn: Nguyễn Thế Tổ.
Trường hợp nhà tiền Lê, sử sách
không ghi miếu hiệu của vua Lê Đại
Hành nên không biết ngài có miếu hiệu
ra sao. Riêng trường hợp nhà Trần, chúng
tôi chưa t́m được sử liệu nào
giải thích tại sao vị vua sáng lập
triều đại không được đặt
miếu hiệu là Trần Thái Tổ, mà
lại đặt là Trần Thái Tông. Với
nhà Nguyễn, chúng tôi cũng chưa giải
thích được tại sao cả vua Gia
Long, Minh Mạng, và Thiệu Trị đều
có miếu hiệu với chữ Tổ:
Nguyễn Thế Tổ, Nguyễn Thánh Tổ,
Nguyễn Hiến Tổ. Bốn trường
hợp trên là các ngoại lệ trong lịch
sử miếu hiệu của vua chúa Việt
Nam. Đọc sách sử được
viết dưới thời quân chủ, người
ta c̣n gặp loại danh xưng mà các nhà
sử học gọi là toàn xưng, tức là
lối phối hợp miếu hiệu, tên
thụy và đế hiệu: Sau đây là các
ví dụ:
-Tên chính: Nguyễn Nhạc; Miếu
hiệu: Thái Tổ; Thụy hiệu: Vơ;
Toàn xưng : Thái Tổ Vơ Hoàng Đế.
-Tên chính: Nguyễn Phúc Ánh; Miếu
hiệu: Thế Tổ; Thụy hiệu: Cao;
Toàn xưng: Thế Tổ Cao Hoàng Đế
Cách gọi toàn xưng trên được các
sử gia sau này gọi chung là miếu
hiệu.
Khi chết, các hoàng hậu cũng được
triều đ́nh đặt miếu hiệu,
được thờ trong thái miếu. Ví
dụ:
Bà Tống Thị Lan; Miếu hiệu:
Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu - Vợ vua Gia Long
Bà Trần Thị Đang; Miếu hiệu:
Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu - Vợ vua Gia
Long
Bà Hồ Thị Hoa; Miếu hiệu:Tá Thiên
Nhân Hoàng Hậu - Vợ vua Minh Mạng
Bà Phạm Thị Hằng; Miếu hiệu:Thiên
Chương Hoàng Hậu - Vợ vua Thiệu
Trị
Đến đời Gia Long, các chúa
Nguyễn cũng được truy tôn hoàng
đế, có miếu hiệu, nên các sách
Thực Lục, Liệt Truyện, Việt
Sử Thông Giám Cương Mục đều
dùng những danh xưng dành cho hoàng đế
để gọi các chúa Nguyễn như con
trai là hoàng tử, con gái là công chúa, các người
trong họ hàng là tôn thất. Trái lại, các
chúa Trịnh cũng được đặt
miếu hiệu, nhưng chỉ là vương,
dưới đế một bậc.
Ngoài các miếu hiệu có ư nghĩa đẹp,
người ta c̣n thấy các miếu hiệu
Lê Ngọa Triều, Đinh Phế Đế,
Trần Phế Đế. Lê Ngọa
Triều, tức Lê Long Đĩnh (1005-1009)
đă giết anh là Lê Long Việt, tức Lê
Trung Tông (1005) mới lên ngôi được 3
ngày. Long Đĩnh có đế hiệu là
Khai Minh Vương, nhưng v́ có cuộc
sống ăn chơi, trác táng, phải
nằm khi yết triều, nên vua Lư Thái
Tổ, sau khi lật đổ Lê Long
Đĩnh, đă đặt cho ông vua này
miếu hiệu: Lê Ngọa Triều. Trong
tiếng Hán, ngọa có các nghĩa: nằm,
bệnh tật.
Theo định nghĩa của sử gia Ngô
Thời Sĩ, Phế Đế hay Mạt
Đế là miếu hiệu dân gian đặt
cho các vua không đáng là vua hay bị
truất phế. Đinh Tuệ (979-980) bị
Lê Đại Hành lật đổ nên sử
gọi là Phế Đế. Trần Nghiễn
(1377-1388), con Trần Duệ Tông (1372-1377),
bị truất phế nên gọi là Trần
Phế Đế. Năm 1954, miền Nam
Việt Nam có cuộc trưng cầu dân ư
để chọn lựa vua Bảo Đại
(1926-1945) hay Thủ Tướng Ngô Đ́nh
Diệm (1954-1963). Dân chúng chọn ông Ngô
Đ́nh Diệm và lúc đó báo chí gọi
vua cuối cùng nhà Nguyễn là Phế Đế
Bảo Đại.
Ngài mai: Những loại tên đặc
biệt của thường dân Việt Nam
|