|
[ Xem
Mục Lục
]
TIẾT C: TÔN HIỆU
1. Định Nghĩa Tôn Hiệu: Tôn
hiệu là tên vua được triều
đ́nh đặt trong những ngày đặc
biệt như ngày lên ngôi hoàng đế, ngày
thượng thọ ngũ tuần, lục
tuần, ngày thắng trận trở về.
Trong các dịp này, đ́nh thần tổ
chức buổi lễ mừng, đồng
thời dâng lên vua một tôn hiệu để
ca ngợi vua.
2. Nguyên Tắc Dâng Tôn Hiệu: Không có
nguyên tắc quy định khi nào dâng tôn
hiệu, nhưng đọc sử thấy tôn
hiệu được dâng vào các dịp sau
đây: Khi Đinh Bộ Lĩnh (968-979) lên ngôi
hoàng đế, đ́nh thần dâng tặng tôn
hiệu: Đại Thắng Minh Hoàng Đế. Theo
sử cũ Đinh Tiên Hoàng là vua đầu tiên
có tôn hiệu.
Khi Lê Đại Hành (980-1005) đại phá quân
Nam Hán ở Bạch Đằng Giang, đ́nh
thần dâng tôn hiệu là Minh Càn Ứng
Vận Thần Vũ Thăng B́nh Chí Nhân
Quảng Hiếu Hoàng Đế.
Khi vua Lư Thái Tông (1028-1054) dẹp được
cuộc nổi dậy của Nồng Tồn
Phúc, các quan dâng tôn hiệu: Kim Dũng Sinh Ngân,
Nùng B́nh Phiên Phục. Nghĩa là vàng sôi lên,
bạc sinh ra, họ Nùng bị diệt, phiên
bang phục tùng.
Khi Lư Thái Tông diệt Sạ Đẩu, các
quan xin dâng tôn hiệu: Thánh Đức Thiên
Cảm, Tuyên Uy Thánh Vơ. Khi Lư Chiêu Hoàng
(1224-1225) nhường ngôi cho Trần Cảnh,
quần thần dâng tôn hiệu: Khải Thiên
Lập Cực, Chí Nhân Chương Hiếu Hoàng
Đế. Và khi Trần Cảnh, tức
Trần Thái Tông (1225-1258) nhường ngôi
để lên làm thái thượng hoàng th́
triều đ́nh dâng tôn hiệu: Quang Nghiêu
Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế.
Khi Trần Thái Tông (1225-1258) thượng
thọ thất tuần, đ́nh thần dâng tôn
hiệu: Uyên Ư Khâm Cung Nhân Từ Đức
Thọ Hoàng Đế. Khi Trần Thánh Tông
(1258-1278) lên ngôi, đ́nh thần dâng tôn
hiệu là Hiến Thiên Thể Đạo
Đại Minh Quang Hiếu Hoàng Đế.
Đọc lịch sử không thấy trường
hợp nào các quan xin dâng tôn hiệu mà vua
từ chối. Duy nhất một trường
hợp vua Lê Thánh Tông (1460-1497) đă khiêm
tốn từ chối lời xin dâng tôn
hiệu, và khuyên các quan như sau:
Trẫm chưa dám nói đến danh
hiệu Hoàng Đế. Đối với các
khanh, Trẫm xưng là Hoàng Thượng.
Đối với Thái Miếu, Trẫm xưng
là Tự Hoàng, như thế cũng đủ
khác với danh hiệu của các thân vương
rồi. Những lời ấy các khanh nên nghĩ
lại. Sau này, vài năm nữa, nếu
thấy trên th́ trời thuận, dưới
th́ dân yên, mưa gió điều ḥa, nước
lớn thân thiện, nước nhỏ
sợ uy, mới có thể bàn đến tôn
hiệu.Các khanh nghĩ lại xem .
3. Mục Đích Của Tôn Hiệu: Như
đă nói, tôn hiệu có mục đích ca
ngợi vua nên triều đ́nh đă không
tiếc lời đặt tôn hiệu rất
dài, đi đến chỗ nịnh bợ.
Vua Lư Thái Tổ (1010-1028) có tôn hiệu dài
nhất Việt Nam, tới 52 chữ:
Phụng Thiên Chí Lư Ứng Vận Tự
Tại Thánh Minh Long Hiện Duệ Văn Anh Vũ
Sùng Nhân Quảng Hiếu Thiên Hạ Thái B́nh
Khâm Minh Quảng Trạch Chương Minh
Vạn Bang Hiển Ứn Phù Cảm Uy
Chấn Phiên Man Duệ Mưu Thần Trợ
Thánh Trị Tắc Thiên Đạo Chính Hoàng
Đế.
Việc dâng tôn hiệu quá dài, đi đến
chỗ nịnh hót, đă bị các sử gia
thời quân chủ lên án. Sử gia Ngô Sĩ
Liên viết:
Kinh thư tôn xưng vua Nghiêu là Phóng Huân,
vua Thuấn là Trùng Hoa. Những bề tôi
đời sau theo đức hạnh có
thực mà tôn xưng vua đến hơn
chục chữ đă là nhiều rồi. Bây
giờ bề tôi dâng tôn hiệu cho Lư Thái
Tổ đến 50 chữ. Thế là không kê
cứu học vấn đời xưa,
chỉ cốt nịnh vua. Thái Tổ nhận
mà không từ chối đó là muốn khoe
khoang để cho đời sau không ai hơn
được đều là sai cả. Về
sau dâng tôn hiệu cho Thái Tông cũng đến
gần 50 chữ, có lẽ cũng bắt chước
cái sai lầm ở đây.
Lê Ngọa Triều là ông vua tàn ác, nhưng
triều đ́nh cũng dâng tôn hiệu: Khai
Thiên Ứng Vận Thánh Văn Thần Vũ
Tắc Thiên Sùng Đạo Đại
Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng Đế.
Ngày mai: T́m hiểu Thụy Hiệu của vua
chúa Việt Nam |
Nguyễn Long Thao
VietCatholic News (Thứ Tư 1/12/2004)
|
Xem Tính danh học
Việt Nam: Nghiên
cứu Tên Tự Niên
Hiệu Đế
Hiệu Tôn
Hiệu
Thụy
Hiệu
[ Xem
Mục Lục
]
|
|