|
[ Xem
Mục Lục
]
NGHIÊN CỨU TÊN TỰ CỦA NGƯỜI
VIỆT NAM
Ngoài tên họ, tên đệm, tên chính, người
Việt Nam c̣n nhiều loại tên như
đế hiệu, niên hiệu, thụy
hiệu, tôn hiệu, tên tự, tên hiệu, tên
thánh, pháp danh v.v... Có loại tên đă vĩnh
viễn đi vào lịch sử, có loại
mới xuất hiện khi nước ta
tiếp xúc với văn hóa tây phương,
có loại chỉ dành riêng cho một giai
cấp hoặc tầng lớp xă hội
nhất định. Do vậy để t́m
hiểu những danh xưng đặc
biệt của người Việt Nam, chúng
ta cần nói về các danh xưng đặc
biệt của vua chúa Việt Nam, và các danh xưng
đặc biệt của thường dân
Việt Nam. Bài nghiên cứu này tập trung vào
một loại tên của giới trí thức
Việt Nam thời xưa: Tên Tự
1. Định Nghĩa Tên Tự: Theo
định nghĩa của Đại Từ
Điển Tiếng Việt, tên tự là tên
đặt dựa vào tên vốn có thường
phổ biến trong giới trí thức
thời phong kiến. Đối với dân
gian xưa, tên tự c̣n được
gọi là tên chữ v́ các cụ thường
dùng từ Hán Việt để đặt tên
này. Ví dụ khi viết tiểu sử cụ
Nguyễn Đ́nh Chiểu (1822-1888), các sách
vở thường ghi: tự là Mạnh
Trạch, hiệu là Trọng Phủ hay
Hối Trai. Tên tự bắt đầu có
từ đời nhà Chu, sau khi triều đại
này đặt ra phép kỵ húy tên vua. Tên
tự đă tồn tại suốt thời
kỳ quân chủ tại Trung Quốc cũng
như Việt Nam.
2. Mục Đích Tên Tự: Tên tự
đặt ra để kiêng húy tên chánh, nên
nguyên tắc căn bản khi đặt tên
tự là làm sao giữa tên chánh và tên tự
có sự liên hệ với nhau. Nói khác đi,
nói đến tên tự, người ta có
thể suy ra tên chánh và ngược lại.
Nguyên tắc đặt tên tự được
sách Bạch Hồ Thông ấn định như
sau: Vấn danh tri kỳ tự, vấn tự
tri kỳ danh, nghĩa là hỏi tên chánh
biết tên tự, hỏi tên tự biết tên
chánh. Một khi đă có tên tự, người
khác sẽ dùng tên đó để gọi cá
nhân ấy trong việc giao tiếp xă hội.
Ví dụ 3 nhân vật thời Tam Quốc là Tào
Tháo được gọi là Tào Mạnh
Đức, Lưu Bị được
gọi là Lưu Huyền Đức, Tôn
Quyền được gọi là Tôn
Trọng Mưu.
Ngày xưa, lúc Hán học c̣n thịnh hành, tên
các danh nhân đều viết bằng Hán
tự nên việc t́m hiểu sự liên
hệ giữa tên chánh và tên tự có
phần dễ dàng. Ngày nay, ta gặp trở
ngại lớn v́ tên các danh nhân được
viết bằng quốc ngữ, có âm nhưng
không biết mặt chữ Hán thế nào. Do
đó, không biết đích xác tên các cụ
có ư nghĩa ra sao v́ nhiều chữ đồng
âm nhưng dị nghĩa.
3. Nguồn Gốc Tên Tự: Tại
Việt Nam, không có sử liệu nào cho
biết tên tự có từ bao giờ. Sử
gia Lê Tắc trong An Nam Chí Lược ghi ông
Đỗ Viện sống cuối đời Đông
Tấn (317-419) có tên tự là Đạo Ngôn. C̣n
đọc tiểu sử các nhà nho trong
thế kỷ thứ 10, chưa thấy vị
nào lấy tên tự. Nhưng đọc Lĩnh
Nam Dật Sử, ta thấy nhân vật chính là
Hoàng Quỳnh, người Mường, có tên
tự là Phùng Ngọc. Sách này do Ma Văn Cao
soạn và người cháu năm đời
là Ma Văn Khái tặng cho Trần Nhật
Duật để ông này đem dịch ra Hán
văn, cho in năm 1297. Như thế, nếu
tính từ Ma Văn Cao đến người
cháu năm đời, th́ sách này ít nhất
đă được viết vào khoảng
thế kỷ thứ tám, thứ chín. Như
vậy, người Việt đă biết dùng
tên tự cách đây hơn 1000 năm.
4. Nhiệm Vụ Tên Tự: Đọc
tiểu sử các danh nhân Trung Quốc cũng
như Việt Nam, ta thấy tên tự có
thể là tên đơn, tên hai chữ, ba
chữ. Nhưng tuyệt đại đa
số là tên hai chữ và nếu phân tích các
tên tự, ta thấy chỉ một trong hai
chữ có liên quan đến tên chính, c̣n
từ ngữ kia được thêm vào để
làm một trong ba nhiệm vụ sau đây:
a. Để chỉ thứ cấp trong
họ hàng: Người Trung Quốc cũng
như Việt Nam ghép một từ như Bá,
Mạnh, Trọng, Quư, Trưởng, Cao vào tên
tự để chỉ thứ cấp họ
hàng. Ta có thể kể các ví dụ: Đức
Khổng Phu Tử tên là Khổng Khâu (551-479
TCN), tự là Trọng Ni. Ngài chọn chữ
Trọng trong nhóm Bá, Mạnh, Trọng, Quư
để cho biết ngài là con thứ trong gia
đ́nh. C̣n chữ Ni liên quan đến
chữ Khâu v́ tại Trung Quốc có ngọn
núi Ni Khâu là nơi mà bố mẹ đức
Khổng Tử đă cầu tự ngài ở
đó. Nhắc tới chữ Ni, người
ta nghĩ ngay đến chữ Khâu. Tại
Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy
(1924-1990) cho biết tên tự của ông là
Trọng Minh. Chữ Trọng chỉ người
con thứ, chữ Minh đồng nghĩa
với Huy là ánh sáng.
b. Để chỉ sự tôn kính: Người
Trung Quốc cũng như Việt Nam dùng các
từ sau đây để ghép với tên
tự chỉ sự tôn kính: Công, Chi, Doăn,
Hoằng, Khổng, Ông, Phu, Phủ, Phụ, Thúc,
Sĩ. Ví dụ Gia Cát Lượng, chiến lược
gia thời Tam Quốc, có tự là Khổng
Minh. Minh và Lượng có nghĩa là ánh sáng.
Từ Khổng được thêm vào để
tỏ ư tôn kính. Cùng chiến tuyến
với Gia Cát Lượng có quân sư Bàng
Thống, tự Sĩ Nguyên. Chữ Thống có
nghĩa là hợp tất cả lại làm
một, đồng nghĩa với chữ Nguyên
nghĩa là các thành phần không thể phân
ly ra được. Chữ Sĩ để
tỏ ư tôn kính.
Tại Việt Nam, ông Trương Hán Siêu
(?-1354), danh nhân nhà Trần, có tự là Thăng
Phủ. Thăng và Siêu đều có nghĩa
là tiến lên chỗ cao hơn. C̣n từ
Phủ thêm vào để tỏ ư tôn kính.
c. Để tên tự có âm thanh hài ḥa và
có ư nghĩa đẹp. Ngày xưa, đa
số tên tự được các cụ thêm
một từ ngữ để có âm thanh hài
ḥa, có ư nghĩa hoa mỹ. Ví dụ Quan Vũ,
một danh tướng thời Tam Quốc có
tên tự là Vân Trường. Vũ và Vân có
mối liên hệ với nhau. Vũ là cánh
chim bay, Vân là mây gió, c̣n chữ Trường
được thêm vào để có âm thanh hài
ḥa và ư nghĩa hay. Vân Trường là
giải mây dài. Bà Nguyễn Nhược
thị, tên là Nguyễn Thị Bích (1830-1901),
tác giả Hạnh Thục Ca, có tên tự là
Lang Hoàn. Bích và Lang trong Hán tự có nghĩa
là ngọc, c̣n Hoàn là viên, được thêm
vào cho có ư nghĩa. Lang Hoàn là viên ngọc.(c̣n
tiếp)
(Ngày mai: Phương pháp đặt tên
tự) |
Nguyễn Long Thao
http://vietcatholic.com/news/html/news22226.htm |
Tính Danh Học Việt Nam :
Nghiên cứu tên tự (Phần II)
5. Phương Pháp Đặt Tên Tự:
Như đă nói trên, nguyên tắc đặt
tên tự là làm sao giữa tên tự và tên
chánh có sự liên hệ. Để đạt
mục tiêu này, các danh nhân Trung Quốc cũng
như Việt Nam đă áp dụng bốn phương
pháp sau đây:
a. Dùng chữ đồng nghĩa: Theo phương
pháp này, tên chính và tên tự đồng nghĩa.
Đa số các danh nhân Trung Quốc và
Việt Nam dùng phương pháp này để
chọn tên tự. Ta có thể nêu các ví
dụ: Tại Trung Quốc, nhân vật
lịch sử Tào Tháo thời Tam Quốc có tên
tự là Mạnh Đức. Tháo và Đức
trong Hán tự đều có nghĩa là đức
hạnh, phẩm giá. Chữ Mạnh thêm vào
để chỉ người con thứ. Đồng
thời với Tào Tháo có dũng tướng
Trương Phi, tự là Dực Đức.
Phi và Dực đều có nghĩa là bay. C̣n
chữ Đức được thêm vào
để tên thêm phần hoa mỹ. Lăo
Tử tên thật là Lư Nhĩ, tự Bá Dương.
Dương và Nhĩ đều có ư nghĩa
liên quan đến mặt trời. Thầy
Mạnh Tử tên chính là Mạnh Kha, tên
tự là Tử Dư. Chữ Kha có nghĩa là
trục xe, chữ Dư có nghĩa thùng xe,
cả hai được viết với
bộ xa là cái xe. Thầy Nhan Hồi có tên
tự là Uyên. Hồi và Uyên đều có nghĩa
là ḍng nước, được viết
với bộ thủy. Lỗ Túc, chính trị
gia thời Tam Quốc, quân sư cho Tôn
Quyền, có tên tự Tử Kính. Túc và Kính
đều có nghĩa là cung kính. Thầy
Tệ Dư, đồ đệ của đức
Khổng Tử có tên tự là Tử Ngă. Dư
và Ngă có nghĩa là tôi. Nhà cách mạng Lương
Khải Siêu (1873-1929) có tự là Trác Như.
Trác và Siêu đều có nghĩa là vượt
lên cao hơn nữa.
Tại Việt Nam, cụ Trương Hán Siêu
có tên tự là Thăng Phủ. Từ ngữ
Siêu và Thăng đều có nghĩa là
tiến lên chỗ cao hơn. Nhà bác học Lê
Quư Đôn (1726-1784) có tên tự là Doăn
Hậu. Đôn và Hậu đều có nghĩa
là thành thực. Danh sĩ triều Nguyễn là
Trương Quốc Dụng (1797-1864) có
tự là Dĩ Hành. Dụng và Dĩ đều
có nghĩa là dùng. Thi sĩ Trần Tế Xương
có tự là Tử Thỉnh. Thịnh và Xương
đều có nghĩa là phồn vinh, phát
đạt. Cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu
(1822-1888) có tự là Mạnh Trạch.
Chiểu và Trạch có nghĩa là cái đầm,
cái ao. Khi viết, hai chữ này đều có
bộ thủy. Hai học giả miền Nam
thời Pháp thuộc là các ông Trương Vĩnh
Kư (1837-1898) tự là Sĩ Tải và Trương
Minh Kư tự là Thế Tải. Chữ Tải
trong tên tự của hai ông có nghĩa bóng là
nhân tài làm được việc lớn. C̣n
chữ Kư có nghĩa bóng là nhân tài kiệt
xuất. Nhà văn Đào Trinh Nhất
(1900-1951) có tự là Quán Chi. Nhất và Quán
đều có nghĩa hạng nhất, đứng
đầu.
b. Dùng phương pháp loại suy: Phương
pháp này là dựa vào tên chính, suy ra tên
tự hay ngược lại. Ta có thể nêu
các thí dụ sau: Đời Xuân Thu Chiến
Quốc, có ông Tư Mă Canh, tự là Tử
Ngưu. Canh là cầy ruộng. Áp dụng phương
pháp loại suy, ta thấy khi cầy ruộng
th́ cần trâu, tức Ngưu, nên ông Tư Mă
Canh đă chọn tên tự là Tử Ngưu,
chữ Tử thêm vào để tỏ ư tôn kính
như Lăo Tử, Khổng Tử. Ông Chu Trương
tự là Tử Cung. Cung là cây cung, khi nói
đến cung, ta nghĩ đến việc
phải trương giây cung. Danh tướng
Triệu Vân thời Tam Quốc có tự là
Tử Long. Nói tới vân là mây, ta nghĩ
đến long là rồng bay trong mây. Tôn
Quyền, vua của Đông Ngô thời Tam
Quốc, có tự là Trọng Mưu. Trong Hán
tự, từ kép Quyền Mưu nghĩa là mưu
kế để đối phó với
những trường hơp phi thường
hay mưu kế gian quyệt. Do vậy, người
tên Quyền lấy tên tự là Mưu, c̣n
từ Trọng chỉ thứ cấp trong gia
tộc.
Tại Việt Nam, các cụ cũng áp
dụng nguyên tắc này. Ông Lư Văn
Phức (1785-1849), tác giả Nhị Thập
Tứ Hiếu có tự là Lân Chi. Chi có nghĩa
là một thứ cỏ thơm. Nói đến
thơm, người ta nghĩ đến
chữ Phức là hương thơm. Cụ
Trương Đăng Quế, danh nhân
triều Nguyễn, có tên tự là Diên Phương.
Phương có nghĩa là mùi thơm. Diên Phương
nghĩa là mùi thơm ngào ngạt, nhắc ta
nhớ đến mùi thơm cây quế. Ông Lương
Nhữ Hộc, đỗ thám hoa đời Lê
Thái Tông (1434-1442), là tổ nghề in ở
Việt Nam, có tên tự là Tường
Phủ. Tường có nghĩa là chim bay lượn.
Chữ Tường và chữ Hộc đều
viết với bộ điểu, từ đó
loại suy ra tên chánh phải là loại chim:
chim hộc giống như con thiên nga. Cụ
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) tự là
Hạnh Phủ. Hạnh là đức
hạnh, liên hệ đến Khiêm là nhún nhường.
C̣n từ Phủ thêm vào để tỏ
vẻ tôn kính.
c. Dùng điển tích để đặt
tên tự: Phương pháp này là lấy
một thành ngữ, một câu văn, hay
điển tích của Tàu mà trong đó có
cả tên chính và tên tự. Xin nêu vài Ví
dụ: Đời nhà Hán có ông Ngụy
Triết tự Tri Nhân. Ông lấy tên Tri Nhân
v́ thành ngữ Trung Quốc có câu: “Tri Nhân
Tức Triết”. Ông Lộc Long có tên
tự là Tại Điền. Trong Kinh Dịch
có câu: “Hiên Long Tại Điền” nên người
tên Long lấy tên tự là Tại Điền.
Ông Phan Nhạo có tự là An Nhân. Trong sách
Luận Ngữ có câu: “Trí Giả Nhạo
Thủy, Nhân Giả Nhạo Sơn”, nghĩa
là người có trí thích nước, người
có ḷng nhân thích núi. Tên chánh là Nhạo nên
lấy tên tự là Nhân.
Tại Việt Nam, các nhà nho xưa cũng áp
dụng phương pháp này. Ông ngoại
của Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy là
cụ Trần Minh Đức có tự là
Nhuận Thân. Chữ Đức và Nhuận Thân
đều có trong câu của sách Đại
Học: “Phú Nhuận Ốc, Đức
Nhuận Thân”. Nghĩa là sự giàu có làm
nhà ở tốt đẹp, đức
hạnh làm thân ḿnh tốt đẹp.
Học giả Bùi Kỷ có tên tự là Ưu
Thiên. Theo sách Liệt Tử và Tả
Truyện, nước Kỷ có người
suốt ngày lo trời sập. Do vậy,
nhắc đến ưu thiên, nghĩa là lo
trời sập, người ta nghĩ ngay
đến người nước Kỷ.
Đó là lư do tại sao cụ Bùi Kỷ
lấy tên tự là Ưu Thiên.
d. Dùng tiếng phản nghĩa để
đặt tên tự: Nếu áp dụng phương
pháp này, tên tự và tên chính phải có ư
nghĩa trái ngược nhau. Ví dụ nhà thơ
Đào Tiềm (372-472) của Trung Quốc có
ảnh hưởng lớn tới tư tưởng
của các nhà nho Việt Nam có tên tự là
Nguyên Lượng. Lượng và Tiềm trái
nghĩa nhau. Tiềm có nghĩa là ẩn
dấu trong khi Lượng có nghĩa là phô bày
ra. Đời Xuân Thu Chiến Quốc, môn
đệ đức Khổng Tử là ông
Đoàn Mộc Tứ có tự là Tử
Cống. Theo từ điển của Đào
Duy Anh, chữ Tứ là người trên cho người
dưới, c̣n Cống là hiến dâng, hàm ư
người dưới dâng cho người trên.
Ông Bốc Thương tự là Tử
Hạ. Ta biết, khi xưa Thương và
Hạ là hai triều đại Trung Quốc ḱnh
chống lẫn nhau. Thi sĩ Hàn Dũ đời
Đường làm bài văn ném xuống sông
để cá sấu đi có tên tự là Thoái
Chi. Dũ và Thoái trái nghĩa nhau. Dũ là
tiến thêm lên c̣n Thoái là thụt lùi
lại. Danh thần nhà Nguyễn là ông
Trần Tiễn Thành, khi trước tên là Dưỡng
Độn, tự là Thời Mẫn, hiệu
là Tốn Trai. Độn và Mẫn trái nghĩa
nhau. Độn có nghĩa là không rơ ràng,
tối tăm, chậm chạp, c̣n Mẫn có
nghĩa là thông minh, mau mắn.
Ngoài bốn cách phổ thông trên, người
Trung Quốc c̣n dùng nhiều cách thế
phức tạp khác để đặt tên
tự. Ví dụ đời Xuân Thu có ông Nhiên
Đơn, tự là Tử Cách. Chữ Cách là
tấm da trâu nhuộm màu đỏ để
làm áo giáp. C̣n chữ Đơn nghĩa là màu
đỏ. Nên nghe chữ Cách, người ta
phải suy luận qua hai giai đoạn
mới biết tên chánh là Đơn.
Qua các thí dụ trên, ta thấy có nhiều cách
thế đặt tên tự và các cụ xưa
quan niệm rằng tên tự càng bí hiểm
bao nhiêu, càng tỏ ra ḿnh trí thức bấy
nhiêu. Thành ra, hiểu được tên
tự của các cụ không phải là điều
dễ dàng. Tuy nhiên, tên tự lại là
một đề tài rất ư nghĩa về
phương diện ngữ học. Do đó,
vấn đề cần được nghiên
cứu sâu rộng để có thể làm
được quyển từ điển
về tên tự, như các nhà ngữ học
Âu Mỹ và Trung Quốc đă làm về tên
hiệu của các người thời danh
trong nước họ.
6. Nghi Lễ Đặt Tên Tự Tại
Việt Nam: Tên tự được người
xưa đặt trong ngày lễ mà người
Việt gọi là lễ Thành Đinh, tức
thành người, c̣n người Trung
Quốc gọi là lễ Gia Quan, tức lễ
đội mũ. Lễ này cử hành cho nam
giới, lúc khoảng 20 tuổi, tức
lứa tuổi mà xă hội coi người
đó đă đạt mức trưởng
thành. Lễ thành đinh là một biến
cố có ư nghĩa nên được cử
hành trong một buổi lễ trang trọng.
Lễ thành đinh được tổ
chức như sau: Trước hết, cha
mẹ chọn ngày lành tháng tốt tổ
chức buổi lễ. Khách mời là bà con
nội ngoại và một số bạn bè thân
quen. Tất cả tề tựu trước bàn
thờ gia tiên, được trần
thiết với nhang đèn, hoa trái. Chủ
lễ là vị trưởng thượng
trong ḍng họ hay người có uy tín trong thôn
xóm được cha mẹ mời. Người
thanh niên trong bộ áo dài the, quỳ trước
bàn thờ. Mở đầu, chủ lễ làm
lễ lên đèn, sau đó cử hành nghi
thức cáo gia tiên, rồi ngỏ lời khuyên
bảo người thanh niên:
Con ơi, nay con lớn khôn, bắt đầu
từ hôm nay, con phải gánh trách nhiệm
trong gia đ́nh, xă hội. Phải biết
tự trọng, nuôi ư chí lập thân, học
hành chăm chỉ.
Sau đó, người cha hay vị trưởng
lăo lấy khăn xếp đội cho anh và
tuyên bố tên tự của anh. Từ ngày
cử hành lễ thành đinh, theo nguyên
tắc, người con hết lệ thuộc
vào bố mẹ. Anh có thể thay mặt cha
mẹ quản lư tài sản, thừa kế hương
hỏa và chịu trách nhiệm về
những công việc ḿnh làm. Trách nhiệm
đó được coi là nặng nề, nên
trong nhiều gia đ́nh, người thanh niên
phải trải qua cuộc trắc nghiệm
về sức khỏe, gia chánh, hay những
cuộc thi đua đ̣i óc sáng kiến để
chứng tỏ hội đủ điều
kiện đạt tŕnh độ tự
lập.
Như đă nói, tên tự được
đặt bằng từ Hán Việt nên
hiểu được tên tự là điều
khó. Do vậy, thông thường chỉ nhà
nho, hay tầng lớp khá giả mới có tên
tự. Giới b́nh dân ít ai đặt tên
tự cho ḿnh. Nếu có, cũng phải
nhờ các nhà nho đặt và giải thích
ư nghĩa cho. Từ ngày có tên tự, người
khác sẽ dùng tên đó gọi thay tên chính
để tỏ ḷng kính trọng. (hết)
(E mail : thaonguyen918@yahoo.com) |
Nguyễn Long Thao
VietCatholic News (Chúa Nhật
14/11/2004)
|
Xem Tính danh học
Việt Nam: Nghiên
cứu Tên Tự Niên
Hiệu Đế
Hiệu Tôn
Hiệu
Thụy
Hiệu
[ Xem
Mục Lục
]
|
|