Thư viện chữ nổi đầu tiên ở
VN được khai trương tại Trung tâm
Phục hồi chức năng cho người
khiếm thị (Hà Nội) vào sáng một ngày
cuối thu đầu đông. Ông Hideo Kumaki - Giám
đốc dự án - lặng lẽ lùi lại phía
xa, ngắm nhin những đôi tay rờ rẫm
từng trang sách chữ nổi. Ông bảo
những ngày cuối đời, ông dành hết
sức để thực hiện tâm nguyện
"v́ Việt Nam" của ḿnh. Ông sẽ
trở lại Việt Nam một ngày gần
nhất để thực hiện dự án
Chuyển giao công nghệ sản xuất giấy
từ thân cây chuối. Và "nếu tôi có
mệnh hệ ǵ th́ hăy hiến xác tôi cho y
học Việt Nam".
" Tôi lấy làm thắc mắc khi ông nói
nhiều đến cụm từ "mắc
nợ người khiếm thị Việt
Nam". Điều ǵ khiến ông quan tâm đến
người khiếm thị ?
- Tôi đến Hà Nội tám lần rồi, và
điều khiến tôi rất ngạc nhiên là trên
đường phố Hà Nội xe cộ tấp
nập mà người khiếm thị vẫn
thản nhiên di lại với cây gậy ḍ
đường. Tôi hỏi th́ mọi người
bảo rằng, họ phải kiếm sống. Bán
vé số, bán tăm tre, chổi và những
thứ lặt vặt. Tôi đến huyện Hà
Quảng tỉnh Cao Bằng và đi một số
vùng nông thôn thấy người khiếm thị
c̣n sống chật vật về kinh tế,
hầu như họ không được học hành.
Tại một số trường chuyên dạy
trẻ khiếm thị, các em phải học chay,
không có sách giáo khoa chữ nổi. Tôi thấy người
khiếm thị bị thiệt tḥi quá. Qua tṛ
chuyện với họ, tôi thấy hộ rất
thích được học chữ để
mở rộng hiểu biết... những ngặt
một nỗi là thiếu sách chữ nổi.
Trở về Nhật, tôi kể lại cho bà
Uchida Kuniko - Giám đốc xưởng in sách
chữ nổi - nghe những thiệt tḥi của
người khiếm thị ở Việt Nam
với mong muốn là có được sự chia
sẻ của bà, bởi bà cũng là người
khiếm thị nên dễ có sự đồng
cảm. Tôi vẫn cứ mong uớc là phải có
một thư viện chữ nổi cho người
khiếm thị, trẻ em khiếm thị sẽ có
sách giáo khoa để học, người
khiếm thị có điều kiện mở mang
được hiểu biết. Bà Kuniko rất
nhiệt t́nh ủng hộ ư tưởng của tôi.
Các nhà Quốc tế ngữ Nhật Bản
quyết định thành lập Tổ chức
Hợp tác quốc tế (AIKO) với mục đích
chuyên làm các dự án giúp đỡ Việt Nam.
Thư viện chữ nổi là dự án đầu
tiên của AIKO. Tôi thấy ḷng ḿnh nhẹ nhơm
khi tâm nguyện v́ người khiếm thị
Việt Nam của tôi đă thực hiện
được. So với người khiếm
thị ở Nhật bản th́ người
khiếm thị đất nước bạn c̣n
thiệt tḥi nhiều quá. Tôi thấy ḿnh c̣n
phải làm thêm nhiều việc nữa cho người
khiếm thị VN.
Có được 10 triệu yên Nhật do JICA tài
trợ, ông Kumaki "ôm" sang Việt Nam cùng các
nhà Quốc tế ngữ Việt Nam triển khai
dự án "Thư viện chữ nổi". Bà
Ngọc Lan, một cộng sự của ông,
kể lại rằng, mấy ngày đầu ông
Kumaki c̣n ở khách sạn, đến bữa cơm
mọi người chuẩn bị cho ông một
bữa ăn rất Nhật Bản. Không
được một tuần, ông Kumaki đề
đạt nguyện vọng là được
"cùng ăn, cùng ở" với người
khiếm thị tại Trung tâm Phục hồi
chức năng cho người khiếm thị. Ai
cũng ái ngại bởi nếu ông ở trung tâm
th́ tiện nghi thiếu thốn, ăn uống
với học viên khiếm thị mỗi bữa
có 2.500 đồng. "Ông ấy đă quyết
th́ có mà trời cản" - bà Ngọc Lan chép
miệng.
Căn pḥng của ông khá nhỏ, không điều
hoà nhiệt độ. Đến bữa ăn, ông
xuống nhà ăn tập thể cùng ăn với
học viên khiếm thị. Một bát canh mà cô
cấp dưỡng nấu khéo đến mức
mà chỉ thấy hành, màu vàng của mỡ
nổi lên c̣n ở dưới chỉ toàn là nước.
Một đĩa rau muống xào và đĩa
thịt lợn kho củ cải.
Tám tháng trời ông Kumaki đă hoàn tất "Thư
viện chữ nổi". Từ đó những
trang sách giáo khoa đầu tiên bằng chữ
nổi đă được in từ thư
viện, cung cấp cho học sinh khiếm thị
ở mọi miền.
´ Cộng sự của ông - những nhà Quốc
tế ngữ Việt Nam - kể lại rằng
mỗi lần đến Việt Nam ông lại
bảo thấy thêm những điều
"mới và lạ"?
- Này - ông nói như mặc cả - tôi chỉ nói
đến điều mới là lạ chứ không
phải nói đến sự thay đổi
của đất nước bạn đâu nhé. Ví
dụ năm 1992, lần đầu tiên tôi đến
Việt Nam ai cũng gọi tôi là "người
Nhật", bây giờ trở lại th́ mọi
người lại gọi là "ông Ôsin". Tôi
có cảm nhận là ở Việt Nam đang có
"mốt" Ôsin th́ phải. Bởi dường
như trong mỗi câu chuyện thường ngày
của mọi người, tôi cứ thấy nói
nhiều đến chuyện Ôsin. Thế là người
Việt Nam giàu hơn người Nhật chúng tôi
rồi đấy. ở Nhật, ít gia đ́nh dám
thuê người giúp việc lắm. Phụ
nữ Nhật cũng không c̣n thích làm nghề này,
họ t́m đến các công sở.
Hàng quán nhiều hơn, tràn ra cả vỉa hè, tôi
rất thích ăn phở Hà Nội, thịt chó
chế biến nhiều món, rất ngon và món
tiết canh cũng rất lạ miệng. Nhưng
tôi thấy hơi lạ khi mọi người
thản nhiên ngồi ăn và lại ăn rất
ngon khi dưới chân tràn ngập giấy, xương
xẩu...
Thấy tôi không có phản ứng trước
lời than phiền của ḿnh, ông hỏi rất
thành thật: "Có phải đó là đặc
trưng của quán ăn vỉa hè Hà
Nội?". Tôi thoáng ngượng ngùng... Bà
Ngọc Lan đă nhanh trí đặt câu hỏi
thay cho tôi bằng ngôn ngữ quốc tế
Esperanto.
´ Ông có thể nói rơ hơn về dự án làm
giấy in chữ nổi và cả một
"dự án" riêng của ông khiến chúng tôi
bất ngờ?
- V́ người khiếm thị và người nông
dân Việt Nam, họ thôi thúc tôi phải trở
lại VN trong một ngày sớm nhất.
Những lần đến Việt Nam, tôi thấy
ở đâu cũng trồng chuối. Nh́n
thấy thân chuối vứt đi tôi thấy phí
quá. Trong khi đó, một người bạn
của tôi - Giáo sư Morishi, giảng viên Trường
Đại học Tổng hợp Nagoya - đă có
công tŕnh nghiên cứu được đưa vào
sản xuất thành công, công nghệ sản
xuất giấy từ thân cây chuối. Tôi nghĩ
rằng, nếu công nghệ này được
đưa vào áp dụng tại Việt Nam nó
sẽ đem lại lợi ích kinh tế rất
cao cho người nông dân, đặc biệt là
sản xuất giấy để in chữ
nổi, giảm giá thành của loại giấy
đặc biệt này xuống rất thấp. Tâm
nguyện cuối cùng của tôi là phải
đưa được công nghệ này vào
Việt Nam trong thời gian sớm nhất.
Trở về Nhật, chúng tôi lại đi t́m
nguồn tài trợ. Ông bạn giáo sư của tôi
rất sẵn sàng chuyển giao công nghệ, nhưng
vấn đề cần nhất là vốn. Hai
dự án "Thư viện chữ nổi" và
"Chuyển giao công nghệ sản xuất
giấy từ thân cây chuối" là tâm
nguyện trong những ngày cuối đời
của tôi. Năm nay tôi đă 75 tuổi rồi.
Trong di chúc tôi có nguyện vọng, hiến xác cho
khoa học. Nhưng v́ thực hiện tâm
nguyện của ḿnh tôi nghĩ làm dự án là
phải ở Việt Nam thời gian lâu, v́
thế tôi cũng nói với con cái rằng,
nếu trong thời gian ở Việt Nam, tôi có
mệnh hệ ǵ th́ hăy hiến xác cho y học
Việt Nam.
Tôi vẫn nói với các người bạn - các
nhà Quốc tế ngữ Việt Nam - rằng
ở Nhật tôi là người nghèo, c̣n ở
Việt Nam th́ tôi là người giàu có.
´ Đón nhận Huy chương Hữu nghị do
Nhà nước Việt Nam trao tặng, ông lại
"cứ" tự kiểm điểm xem ḿnh có
xứng đáng nhận danh hiệu cao quư đó
không? V́ sao vậy, thưa ông?
- Tôi lại nghĩ rằng, những điều tôi
đă làm v́ tôi đă là người bạn thân
thiết của nhân dân Việt Nam từ hơn
bốn mươi năm qua chứ không phải
đến bây giờ tôi mới là bạn.
Một nhà văn Pháp đă nói: "Quốc
tế ngữ là vũ khí giải phóng con người".
Tôi là thợ thủ công nên tôi không hề nghi
ngờ điều đó mà làm theo lời giao
huấn đó. Và tôi đă học Quốc tế
ngữ, nhờ vậy mà tôi đă có ư thức
về t́nh đoàn kết hữu nghị đối
với công nhân trên toàn thế giới. Từ khi
tôi biết đến các hoạt động
của các nhà Quốc tế ngữ Việt Nam, tôi
thường xuyên trao đổi với nhà
Quốc tế ngữ Đào Anh Kha. Trong thời
kỳ đất nước chiến tranh, bom
rải dày đặc mà vẫn xuất bản
rất nhiều sách Quốc tế ngữ,
khiến các nhà Quốc tế ngữ trên thế
giới ngạc nhiên và nhờ đó tôi đă
đọc và dịch sang tiếng Nhật rất
nhiều bài và truyện để giới
thiệu trên các tờ báo dân chủ. Cuộc
đấu tranh không mệt mỏi của nhân dân
Việt Nam đă mang lại cho tôi nghị
lực.
Năm 1963, khi đế quốc Mỹ gây sự
kiện Vịnh Bắc Bộ và chính quyền Sài
G̣n tiến hành các cuộc đàn áp Phật giáo,
th́ ở Nhật Bản, ông Hideo Kumaki đă
tự nguyện trở thành một chiến sĩ
trong phong trào phản đối chiến tranh
Mỹ xâm lược Việt Nam. Là Đảng viên
Đảng Cộng sản Nhật Bản, ông
Kumaki tham gia các cuộc biểu t́nh do Đảng
Cộng sản Nhật Bản, cùng các nhà
Quốc tế ngữ Nhật Bản đ̣i
Mỹ chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược
ở Việt Nam. Không chỉ riêng ông mà cả
gia đinh Kumaki đều đă xuống
đường v́ nhân dân Việt Nam.
Trầm ngâm giây lát, ông hồi tưởng
lại cả chặng đường hơn 40 năm
luôn luôn sát cánh với nhân dân Việt Nam rồi
kể :
- Qua hoạt động phong trào, tôi càng ngày càng
nhận ra là để động viên được
nhiều tầng lớp nhân dân Nhật Bản
ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân
Việt Nam hơn nữa th́ điều cần
thiết phải làm cho họ hiểu sâu sắc hơn
nhân dân VN, nhất là về văn hoá, lịch
sử và đặc biệt là truyền thống
đấu tranh bảo vệ độc lập, tính
chất chính nghĩa của cuộc đấu
tranh giải phóng đất nước VN. Nhờ
"ngôn ngữ" Esperanto, tôi đă dịch
"Ḥn đất" của Anh Đức,
"Con trâu" của Nguyễn Văn Bổng,
"Chiếc lược ngà" của Nguyễn
Quang Sáng, "Bước đường cùng"
của Nguyễn Công Hoan...
Với tôi, những ǵ làm lợi cho Việt Nam là
tôi làm, cho dù đó là việc nhỏ nhất như
tôi đă từng đứng giữa phố bán hàng
kỷ niệm để lấy tiền ủng
hộ Việt Nam...
Trong buổi lễ trao tặng Huy chương
Hữu nghị cho ông Hideo Kumaki, nhà Quốc tế
ngữ Việt Nam Đào Anh Kha đă nhắc
lại lời tâm sự của người
bạn ḿnh: "Chỉ sau khi đă làm quen
với các nhà Quốc tế ngữ Việt Nam,
Esperanto mới trở thành một lư tưởng
đối với tôi chứ không c̣n chỉ là
một tṛ chơi. Bởi v́ Việt Nam đă
nhập vào trái tim tôi và giúp đỡ Việt
Nam đă trở thành lư tưởng của
cuộc đời tôi". Ông đă nói với
Kumaki rằng: "Đồng chí hoàn toàn xứng
đáng với sự tôn vinh của đất nước
chúng tôi".
< Lao Động >