|
[ Trở về
]
Yếu tố tạo thành tên họ
người Việt
Nguyễn Vy-Khanh
http://www.vietnamgiapha.com/
Đặt tên cho con hoặc để gọi một
người nào, người Việt vẫn dùng
một họ đơn hoặc kép, một
chữ lót hoặc tên đệm biểu chỉ tính
giống hoặc chữ lót chung và một tên
(gọi) đơn hoặc kép. Cách dùng này có
từ thời lập quốc, ít ra là từ khi có
sách sử và thư tịch. Tuy nhiên ngày xưa và
nhất là ở một số tỉnh miền
Trung, người đàn ông thường có tên
họ đơn giản chỉ gồm hai thành
tố mà thôi, tên và họ : Trần Điền, Bùi
Kỷ, Nguyễn Du, Vơ Hồng, ... Ở trên chúng
tôi đă tŕnh bày về lai lịch và các
loại họ đơn và kép. Trong phần này chúng
tôi nói đến các yếu tố chính gồm tên
lót và tên gọi cũng như những loại tên
khác người Việt vẫn dùng để cá
nhân hoặc độc đáo hoá chính ḿnh.
CHỮ LÓT
"Chữ lót" hay "tên đệm" trong
tiếng Anh thường gọi là "middle
name" nhưng đúng ra phải là
"padding/qualifying name". Tiếng Pháp có thể
là "nom interme'diaire" hay "mot intercalaire".
Chữ lót đă được xử dụng
từ thời lập quốc xa xưa : ngư
phủ Chử Cù Vân trong huyền thoại Chử
Đồng-tử và công chúa Tiên Dung thời vua Hùng
(2 tới 3 ngàn năm trước Công-nguyên), anh bà
Triệu Ẩu (248) tên gọi là Triệu Quốc
Đạt.
Chữ lót hoặc tên đệm thường
được xử dụng nhất là "văn"
và "thị" phân biệt phái nam với phái
nữ. "Văn" nghĩa là "người
có học", "nhà nho". "Thị" có
nghĩa là "đàn bà". Có thuyết
lịch sử cho rằng "thị" phát sinh
ra gốc họ hàng (thị tộc), có ư ám
chỉ nhờ người đàn bà mà tộc
họ được tồn tại và kéo dài.
Theo một số nhà ngữ học, "văn"
và "thị" có nghĩa là "con trai
của...", "con gái của..." và là
dấu vết ảnh hưởng văn hóa Mă
Lai. Cách phân biệt nam nữ tiện lợi và
dễ hiểu này không c̣n được người
thời nay yêu chuộng lắm, v́ người ta
cho là thiếu cá tính. Do đó người
Việt nay có khuynh hướng chọn những
chữ lót khác, hay, đẹp và được
chủ quan xem là thích hợp hơn với
từng cá nhân.
Sự thay đổi này có thể có nhiều
mục đích: làm rơ nghĩa tên gọi, tạo
một âm hưởng dễ nghe, hoặc tạo
giây liên lạc họ hàng. Ngoài "văn" và
"thị", những tên lót chung thường
thấy dùng là: phúc, đ́nh, ngọc, bá, thúc,
cao, công, huy, như, tường, anh, đức, sĩ,
viết, quang, ...
Một loại chữ lót thứ ba dùng để
chỉ thứ tự con cái cùng một gia đ́nh
và chỉ dùng cho con trai: "Mạnh" cho con
cả, "Trọng" cho thứ nam và "Quư"
cho con trai thứ ba trở đi. Mạnh,
Trọng, Quư vốn gốc chỉ ba tháng của
một mùa theo âm lịch. Cách dùng này đă thành
thông thường dù nguyên gốc,
"Mạnh" dùng cho con cả ḍng thứ trong
khi "Bá" mới là con cả ḍng trưởng.
Tuy nhiên Bá, Trọng, Quư c̣n có những nghĩa khác
tùy tên gọi đi sau chứ không nhất
thiết thuộc vào ư nói trên. Thí dụ Bá Ṭng,
Trọng Kiều (cầu nặng), Quư Châu. "Giáp"
và "nguyên" cũng thuộc loại chữ lót
này, dùng để chỉ con trai đầu ḷng,
thí dụ : Lê Giáp Hải, Vũ Nguyên Khang.
Loại chữ lót thứ tư dùng để phân
biệt các ngành cùng một gia đ́nh gốc mà
ra. "Bá", "Thúc" thường
được dùng trong loại này. "Bá" dùng
đặt cho con nhà bác hoặc ḍng trưởng,
"Thúc" con nhà chú hoặc ḍng thứ. Ngoài
ra, cũng cùng một mục đích kể trên,
một số gia đ́nh dùng những chữ lót
khác như "Vi, Thời", "Xuân, Vũ"
: Ngô Vi Thụ, Ngô Thời Nhậm và Đặng Xuân
Quang, Đặng Vũ Biền.
Một số gia đ́nh khác, thường
thuộc giới quan cách, sáng chế chữ lót
để phân biệt thế hệ: tất
cả con cái một thế hệ sẽ mang cùng
một chữ lót. Chế độ đặt tên
này rất bành trướng bên Trung-Hoa trong
giới quan lại, bắt chước người
Măn Châu tức nhà Thanh lúc bấy giờ. Một
ông tổ dụng công đặt chữ lót cho
nhiều đời nối tiếp, theo nguyên
tắc "hệ thi" chúng tôi đă tŕnh bày
ở phần trên, khiến con cháu dù tẩu tán
lập nghiệp phương xa cứ nh́n chữ
lót là nhận được họ hàng và
biết thuộc thế hệ thứ mấy để
tiện bề xưng hô. Thường những
chữ lót định trước này được
ghi trong gia phả để con cháu đời sau
biết mà theo, dưới h́nh thức những câu
thơ 4 hoặc 5, 7 chữ. Theo thứ tự,
những chữ này trở nên tên đệm. Và
đến thế hệ cuối cùng, phải nghĩ
ra những tên đệm khác !
Ở Việt Nam có họ Dương Khuê (Hà Đông)
đă phỏng theo cách này. Ông đă đặt
một bài hệ thi gồm 16 chữ, mỗi
thế hệ cứ dựa vào đó mà đặt
tên lót: Dương Tự Quán, Dương Tự
Đề > Dương Thiệu Tống, Dương
Thiệu Tước > Dương Hồng Tuân, Dương
Hồng Phong > Dương Vân Hán, v.v.
Về phần phái nữ, ngoài chữ lót thông
dụng "thị" c̣n thấy dùng những tên
lót khác như "Nữ" và "Diệu",
chữ lót sau thường dùng ở Huế : Lê
thị Diệu Trang, ... Ở thời hiện đại,
tên phụ nữ thường mất hẳn
chữ lót "thị" và nhiều chữ lót
khác được dùng như : ngọc, thanh,
mỹ, thu, tuyết, v.v. dù các chữ lót này không
hẳn chỉ dùng cho phái nữ. Nữ có thể
là Vũ Ngọc Lan, Trương Thu Thủy,
Nguyễn Mỹ Dung, ... trong khi Nguyễn Ngọc Sơn,
Nguyễn Thành Công, ... rơ là nam giới !
Tên Gọi (Danh)
Tên gọi c̣n được gọi là "tên
đẻ", đặt khi mới sinh và "tên
bộ", tên ghi ở sổ Bộ. Tên, người
Pháp gọi là "prénom" và người Anh,
Mỹ gọi là "first name" (hay "personal
name") v́ đặt trước họ, trong khi
người Việt cũng như nhiều dân
tộc Á đông khác, tên được đặt
sau họ. Một lư do là truyền thống tôn kính
gia tộc họ hàng trên trước cá nhân.
Tên thường được chọn một cách
tự do hơn. Một cách tổng quát, người
nhà quê và b́nh dân chỉ lựa một tên (đơn,
tức độc văn danh), người giàu
hoặc có học hoặc tự cho sang trọng
hoặc học làm sang, th́ có khuynh hướng
đặt tên kép (song văn thanh). Ư nghĩa tên
gọi trong trường hợp sau cùng này nằm
trong cả hai hoặc ba yếu tố tạo nên tên
gọi. Tên gọi kép thường dễ t́m
thấy trong các từ điển, thí dụ : Hào-Kiệt,
Tuấn-Kiệt, Anh-Hùng, AnhĐũng, Bạt-Tu.y,
Kỷ-Cương, An-Khang, Chi-Lan, Diễm-Kiều,
Đoan-Trang, Tinh-Hoa, v.v.. Cùng trường hợp
với một số chữ lót như
"ngọc, thanh, ...", nhiều tên gọi có
thể dùng cho cả nam lẫn nữ v́ nói chung
toàn bộ tên họ của một người thường
mới cho biết người đó là nam hay
nữ : Hiền, Tuyền, Kim, Hoàng, Nhân, v.v.
Trên lư thuyết, mỗi người có một tên
gọi khác nhau. Khác, v́ tùy theo tín ngưỡng
hoặc tư tưởng người ta muốn gán
cho tên gọi, hoặc tùy theo tính t́nh và trí tưởng
tưỡng của người đặt tên.
Mỗi người có thể đặt tên cho con
cháu hoặc đổi tên ḿnh theo ư muốn,
cả những tên kỳ dị hay đặc thù
không giống ai. Tên đơn giản thường
thấy ở giới b́nh dân hoặc ở thôn quê
như: Ổi, Mít, Tèo, Bướm, Tí, Hĩm, Cu,
... Nhà nào sanh con khó nuôi hoặc hay bị bệnh
tật sài đẹn thường đặt cho
con những tên xấu xí để "quỷ
thần" tha như Vẹo, Đủi, Đen, ... Có
người không dám đặt tên con quá hay
sợ bị quở hay chê cười. Thời xưa,
các cụ c̣n phải tham khảo các bậc túc
nho hoặc biết chữ và tỏ ra thận
trọng trong việc đặt tên cho con cháu.
Tuy nhiên, theo thói tục, việc đặt tên thường
được căn cứ theo truyền thống
và tín ngưỡng, nhất là trên nguồn
gốc và quyền lực có thể có của tên
gọi. Tên gọi c̣n có thể diễn tả
những ước ao hoặc lư tưởng đặt
cho đứa trẻ mới chào đời như
một thông điệp nhờ đứa trẻ
tinh khiết làm người đưa tin hoặc
báo tin cho đời. Từ khi hàng triệu người
Việt phải bỏ nước ra đi
chẳng hạn, nhiều người đặt tên
cho con là Nam Quân, Phục Quốc, Hồi Hương,...
cũng trong ư nghĩa đó. Nhà nhân chủng
học Claude Le'vi-Strauss trong La pensée sauvage (1962)
đă đề cao tầm quan trọng của ư
nghĩa tiềm ẩn của tên gọi (4).
Ở hải ngoại, người Việt khi
đổi quốc tịch có khuynh hướng
đổi tên hoặc thêm tên gọi tiếng
bản xứ, đă làm mất hẳn hay giảm
đi yếu tố duy nhất và độc đáo
của tên gọi. Dĩ nhiên có những tên
gọi đẹp và đầy ư nghĩa trong
tiếng Việt đă trở nên ... khó nghe khi phát
âm theo tiếng bản xứ như Côn, Công, Dung,
Dũng, Phúc, Quy, ...
Tóm một chữ, tên gọi có quan hệ đến
tương lai của đứa trẻ và mọi
người nói chung sẽ cùng mang tên gọi
suốt đời.
Một cách cụ thể, tên gọi có thể là
tên sông hồ, núi non, hoa quả, cây cỏ (Tùng,
Bách, Mai, Trúc, Lan, Ḥe, Quế,...), màu sắc, chim
chóc hoặc cầm thú (Long, Lân, Quy, Phượng,
Loan, Yến,...), bốn mùa (Xuân, Hạ, Thu, Đông),
tháng, năm (Tí, Sửu, Dần. Măo, Mẹo, Th́n,
Tỵ,...), ngọc quư (Pha, Châu, Ngọc,
Quỳnh,...), tên thuộc về loại kim (Cương,
Chung, Liệu,...), loại đá (Thạch, Bích,
Thạc, Nha, Sa, ...), phúc đức, phẩm
hạnh hoặc h́nh dung tốt đẹp (Phúc,
Lộc, Khang, Ninh, Thạnh, Vĩnh, Trường,
...). Nhiều người thông hiểu chữ Hán
có khuynh hướng lấy từ kinh sách, châm ngôn,
điển tích hoặc đặt tên theo bộ
chữ Hán. Học giả Phạm Quỳnh, tên
Quỳnh thuộc bộ Ngọc, nên đă đặt
tên con theo cùng bộ Ngọc : Khuê, Dao, ... Người
ta cũng lấy địa danh, chổ ở, nơi
sanh quán hay nguyên quán hoặc tên các nhân vật
tiểu thuyết (nhưng tránh lấy tên các nhân
vật lịch sử). Cũng v́ lư do tôn
trọng tổ tiên, mọi người đều
tránh lấy tên ông bà cha mẹ đặt cho con
cháu, khác với người Tây phương.
Cuốn gia phả là cẩm nang để con cháu
tránh đặt trùng tên gọi với ông bà
tổ tiên.
Về cách đặt tên trong một gia đ́nh, có
người đặt tên con cái theo vần
hoặc lấy cùng một chữ cái, hoặc
tất cả tên gọi các con tạo thành
một ư hoặc dùng tất cả tên một
loại mà đặt cho con: thí dụ tên bốn
mùa, tên các phẩm hạnh (Hạnh, Nhân, Trí, Tín,..;
Phước, Lộc Thọ,..) tên ngũ hành hay ngũ
tinh (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), ngũ phúc
(Phú, Quư, Thọ, Khang, Ninh), tứ duy (Lễ, Nghĩa,
Liêm, Sỉ), tứ đức (Hiếu, Đễ,
Trung, Tín cho con trai; Công, Dung, Ngôn, Hạnh cho con gái),
tứ linh (Long, Lân, Quy, Phượng). Trở
ngại là khi con sanh ra nhiều hay ít hơn bộ
chữ. Và cách đặt tên này chỉ dễ dàng
trong xă hội xưa "tam thê bảy
thiếp" và sanh con c̣n là "bổn
phận" của phụ nữ như ghi trong
luật Hồng Đức và Gia Long cũng như
đàn ông tuyệt tự c̣n là lỗi lớn
với ông bà tổ tiên. Đời nay, người
phụ nữ b́nh quyền, ly dị đă thành thói
thường, t́nh gia tộc ngày càng suy yếu th́
cách đặt tên này ngày càng khó thực
hiện.
Một khuynh hướng đặt tên khác cũng
nên ghi nhận dù không thật sự phổ
biến, đo là cách đặt một tên
gọi cho tất cả con trai hoặc gái, chữ
lót sẽ làm phần việc phân biệt mỗi
đứa con. Con gái : Hồng Ly, Mai Ly, Trúc Ly; con
trai : Anh Khoa, Tuấn Khoa, v.v.
Ngoài tên bộ là tên gọi chính thức trên
giấy tờ hộ tịch, người ta có
thể có thêm tên tục (vulgar name), tên cúng cơm,
tên thân mật, tên lịch sự, do chính ḿnh
hoặc do người ngoài đặt cho ḿnh. Trước
khi có tên bộ thường đă có tên tục
(domestic name) để gọi trong nhà; nhất là
thời xưa chỉ khi đến tuổi đi
học, cha mẹ mới làm giấy tờ hộ
tịch cho con, lúc đó mới chọn tên đẹp
đẽ cho con - đứa trẻ lúc đó
sẽ có hai tên gọi, tên tục đă có và tên
gọi ở trường (name at school). Các tên
tục thường nghe : Cu Tí, Cu Nhớn, Cu
Tẹo, Đĩ Lớn, Đĩ Con, Đĩ Út,... Trong
Nam người ta c̣n gọi con theo thứ tự:
Hai, Ba, Tư,.. Tên bộ có thể thay đổi.
Cụ Nguyễn Khuyến vốn tên Nguyễn
Thắng v́ rớt thi Hội năm 1865 đă xin
đổi thành Khuyến. Nhà thơ sông Vị
Trần Tế Xương từng đổi hai
lần nhưng chỉ đổi tên lót, từ
Cao thành Tế và cuối cùng là Kế.
Các tên khác
Ngoài tên ra, người Việt có bút hiệu, bí
danh khi cần và theo truyền thống Nho giáo và
Trung-Hoa, ta c̣n có tên tự, tên hiệu, tên tước,
tên thụy và tên đạo..
Tên tự là tên chữ, thường phải
đi đôi với tên gọi (Danh) và theo kinh sách,
thường là một câu chữ Nho có ư hay nghĩa
lạ, như Tố-Như Nguyễn Du, Sĩ-Tải
Trương Vĩnh Kư, Lệ-Thần Trần
Trọng Kim, Ưu-Thiên Bùi Kỷ, Sở-Cuồng
Lê Dư, Ứng-Hoè Nguyễn Văn Tố, Quán-Chi
Đào Trinh Nhất, ...
Khác với tên tự, tên hiệu và bút hiệu
không theo nguyên tắc đi với tên gọi mà
tự do lựa chọn, tùy sở thích. Tên
hiệu (symbolic name) do chính đương sự
hoặc cha mẹ đặt cho, thường có
ngụ ư hoài bảo, chí khí như Sào-Nam Phan
Bội Châu, Ức-Trai Nguyễn Trăi, Bạch-Vân
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tiên-Điền Nguyễn Du,
Hạo-Nhiên Nghiêm Toản, hoặc nói lên gốc
gác, liên hệ như Tản-Đà Nguyễn Khắc
Hiếu, Lương-Đường Phạm
Quỳnh, ....
Bút hiệu (nom de plume, penname) là tên hiệu
của người cầm bút, tự do đặt
và có thể thay đổi nhiều lần
hoặc dùng nhiều bút hiệu một lúc. Bút
hiệu thường gồm hai chữ hoặc hơn
và có thể mang h́nh thức của tên thật như
Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn Trung), Hoàng
Cầm (Bùi Tằng Việt), Thẩm Thệ Hà
(Tạ Thành Kỉnh), Cung Trầm Tưởng (Cung
Thúc Cần), Dương Nghiễm Mậu (Phí IÙch
Nghiễm), Lư Hoàng Phong (Đoàn Tường), Tô
Kiều Ngân (Lê Mộng Ngân), Nguyễn Kiên-Trung
(Nguyễn Mạnh Côn), Hà Thượng Nhân
(Phạm Xuân Ninh), Mai Trung Tĩnh (Nguyễn
Thiệu Hùng), Vương Đức Lệ (Lê Đức
Vượng), Trần Thy Nhă-Ca (Trần Thị
Thu-Vân), Trần Tuệ-Mai (Trần Thị Gia-Minh),
Hoàng Hương Trang (Hoàng Thị Diệm Phương),
Lê Xuyên (Lê B́nh Tăng), Tô Thùy Yên (Đinh Thành Tiên),
Chu Vương Miện (Nguyễn Văn Thưởng),
Phạm Thiên Thư (Phạm Kim Long), Trần
Dạ Từ (Lê Hà Vĩnh), Vơ Phiến (Đoàn
Thế Nhơn), Trần Hoài Thư (Trần Quư Sách),
Vũ Hạnh (Nguyễn Đức Dũng), v.v.. Bút
hiệu có thể là tên địa lư như sinh
quán, trường hợp của Tô Hoài, Thanh Châu,
Sa-Giang Trần Tuấn Kiệt, Kiên Giang Hà Huy Hà,
có khi do đảo lộn tên thật như
Biển Ngũ Nhy (Nguyễn Bính, thân phụ nhà văn
An Khê), Khái Hưng (Trần Khánh Giư),
Thế-Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), J. Lebai (Lê
Bái), có khi có thể chỉ là tên những người
thân yêu như Mai Thảo, Thế Uyên, Thanh Tâm
Tuyền, thậm chí có khi do t́nh cờ như Tam
IÙch trước đă hay kư mật hiệu XXX.
Nhiều nhà văn không hề dùng bút hiệu như
Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Thị Vinh, Nguyễn
Mộng Giác. Có nhà kư tên thật nhưng lược
tên gọi như Nguyễn Bính (Thuyết),
Phạm Duy (Cẩn), hay lược họ như
Nguyên Hồng (Nguyễn), Hữu Loan (Nguyễn),
Huy Cận (Cù), Xuân Diệu (Ngô), Nhật Tiến
(Bùi), Túy Hồng (Nguyễn Thị). Có người
lại chỉ nỗi tiếng với tên thật
như Hồ Hữu Tường, Vơ Hồng,
Nguyễn Ngọc Ngạn, v.v.
Riêng "biệt danh" hay "sước
hiệu" (surnom, deuxième prénom, sobriquet ; nickname)
thường do người khác đặt cho, gán
cho và thường có ư trêu chọc hoặc miêu
tả ác ư diện mạo hoặc tật xấu
của người đó. Nhà văn Nguyễn Tuân
có sước hiệu là "Tuân mũi to",
Phạm Quỳnh "kính trắng tiên sinh",
một cựu tổng thống miền Nam
"tổng ĺ", v.v.
"Tên tước" hay "tước
hiệu" thường được phong cho,
chỉ thấy ở giới quư tộc, quan
lại: Ôn-Như hầu Nguyễn Gia Thiều, Tùng-Thiện
vương Miên Thẩm, v.v.
Bí danh thường được những người
làm chính trị, cách mạng và cả công an, quân
đội sử dụng để bảo
mật. Bí danh khác với tên "cách
mạng" như của một số đảng
viên cộng sản ở Việt Nam, trong thực
tế là một cách đổi tên, muốn dâng
hiến cho công tác hay chối bỏ quá khứ,
gia đ́nh: Lê Đức Thọ, Mai Chí Thọ, Xuân
Thủy, Trường Chinh, v.v.
Trong các tên khác có "tên thụy" tức tên
hèm (posthumous name). Khác với "tên cúng cơm"
là tên vốn có của một người khi
mới sanh hay lúc nhỏ, tên hèm là tên tự
chọn khi tuổi già để dùng vào việc cúng
giỗ và thờ phượng, ư là người
chết sẽ biết tên mà về. Nếu không
kịp tự chọn, người nhà t́m đặt
cho người vừa chết để con cháu
khấn vái, cúng giỗ. Tên thụy c̣n là tên ghi
vào sớ hoặc do nhà vua truy tặng để tưởng
nhớ công đức người chết.
Tục lệ đặt tên thụy khởi
từ đời Tây Chu bên Trung-quốc : đ́nh
thần căn cứ vào sự nghiệp hoặc hành
vi, đức độ của nhà vua lúc c̣n
sống mà đặt tên thụy cho vua. Lúc đầu
thường dùng một trong bốn chữ Văn,
Vũ, U và Lệ nhưng về sau chỉ dùng Vũ
và Văn là hai chữ để khen. Sau lại
đổi thành "miếu hiệu" như vua
Gia Long có miếu hiệu Thế-tổ Cao Hoàng-đế,
Tự Đức được tặng là Dực-tôn
Anh Hoàng-đế, v.v.
Riêng "tên húy" tức tên phải kiêng tránh,
thường là tên thành hoàng của làng xă
hoặc tên của vua chúa và hoàng gia cũng như
miếu hiệu, hoặc tên của quan lớn
sở tại. Người dân giả lỡ trùng
tên phải đổi hay đọc trại ra hay
lệch đi. Phan Huy Chú vốn tên tục là
Hiệu v́ kiêng húy đă phải đổi thành
Chú. Đời vua Minh Mạng thứ 13 (1832) c̣n đặt
ra lệ hễ các quan cùng tỉnh trùng tên th́ người
kém phẩm trật phải đổi tên. Đó là
lư do Cảnh đọc thành Kiểng, Thái thành
Thới, Ḥa thành Huề, Anh thành Yêng, v.v. Hay t́m
tiếng giống nghĩa mà thay vào : Riêu thay Canh,
Tập thay Học, v.v. Ngày xưa đi thi mà không
biết để tránh tên húy là phạm trường
qui, bị hỏng thi đă đành, có khi c̣n
bị tù tội.
Cuối cùng là "tên đạo" : nếu
theo đạo Phật là "pháp danh" (Buddhist
religious name), là những tên đặt khi quy y;
nếu theo Thiên Chúa giáo, có "tên thánh" (nom
de baptême, patron-saint's name) khi rửa tội, thí
dụ Pétrus Kư tức Trương Vĩnh Kư. Có
ngộ nhận cho rằng tên thánh là lai căng
mất gốc. Thật ra tên thánh là tên chỉ dùng
trong phạm vi tôn giáo, cũng như phápđanh
của người theo đạo Phật, c̣n th́
người theo đạo Thiên Chúa hay Cơ Đốc
vẫn mang tên họ như bất cứ người
theo đạo nào khác. Ngộ nhận này đă
dần mất sau biến cố 30-4-1975 khi người
Việt v́ nhu cầu hội nhập ở nước
ngoài, đă lấy cả tên gọi của người
bản xứ.
[ Trở về
]
|
|